Giới thiệu
 Chia sẻ tâm tình
 Lịch Sinh Hoạt (HT)
 Tư liệu phim ảnh
 Hình ảnh sinh hoạt
 

Lịch công giáo
Giờ lễ các nhà thờ
 
Tĩnh Tâm Nữ 15-16/07/2023 Tĩnh Tâm Nam 1-2/7/2023 Ngày Bạn Trẻ 27-28/05/2023
Ngày Gia Đình 2023 Lễ Thánh Gia 2022 Ngày Bạn Trẻ 4-5/6/2022
Chuyến du hành Đông Bắc và Hành hương Sở kiện - Mừng Ngày Gia Đình 21-25/01/2021 Chuyến du hành Bến Tre  - Hành hương Đức Mẹ La Mã và Linh địa Ba Giồng - Mừng Ngày Gia Đình 9&10/01/2021 Mừng Bổn Mạng và Ngày Gia Đình 27-12-2020
Mừng 25 Năm Vĩnh Ước Thầy-Cô NGÀY GIA ĐÌNH 2020 - MỪNG 25 NĂM NGÀY GIA ĐÌNH 2019
NGÀY GIA ĐÌNH 2018 Tĩnh Tâm Huynh Trưởng Thường Niên 2017 HÌNH ẢNH NGÀY NGHỈ VỚI CHÚA CỦA CÁC CẶP VỢ CHỒNG CĐ STMTY Tại Tu Viện Phanxicô - Thủ Đức  15-16/7/2017
Ngày Bạn Trẻ 2017 Chuyến đi Vinh-Lào-Thái NGÀY GIA ĐÌNH 2017
TĨNH TÂM QUI ƯỚC 09-2016 Ngày Bạn Trẻ 2016
 
   

Chuyên Mục Âm Nhạc
   
   
TÔNG HUẤN GIÁO HỘI TẠI Á CHÂU (2)
 
CHƯƠNG III

CHÚA THÁNH THẦN:
ĐỨC CHÚA VÀ ĐẤNG BAN SỰ SỐNG

Thần Khí Chúa trong Cuộc Sáng Tạo và trong Lịch Sử

\"\\"\\"\"15. Nếu quả thật ý nghĩa cứu thế của Đức Giêsu chỉ có thể hiểu được trong khung cảnh mạc khải của Người về chương trình cứu độ của Thiên Chúa Ba Ngôi, thì như thế Chúa Thánh Thần là một phần tuyệt đối cần thiết của mầu nhiệm Đức Giêsu và ơn cứu rỗi mà Người mang đến. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng thường xuyên quy chiếu về vai trò Chúa Thánh Thần trong lịch sử cứu rỗi, các Ngài lưu ý rằng sự chia cách giả tạo giữa Đấng Cứu Thế và Chúa Thánh Thần, có thể phương hại tới chân lý về Đức Giêsu Đấng Cứu độ duy nhất của mọi người.

Theo truyền thống Kitô giáo, Chúa Thánh Thần luôn luôn được liên kết với sự sống và việc ban sự sống. Kinh Tin Kính của Công đồng Niceno-Constantino gọi Chúa Thánh Thần là "là Đức Chúa, Đấng ban sự sống". Cho nên không phải là điều đáng ngạc nhiên khi nhiều chú giải về bài tường thuật Sáng tạo trong sách Sáng Thế đã nhìn thấy Chúa Thánh Thần trong ngọn gió mạnh lướt qua trên mặt nước (x. St 1,2). Chúa Thánh Thần hiện diện từ giây phút đầu việc của cuộc sáng tạo -là biểu lộ đầu tiên của tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi-, và luôn hiện diện trong thế giới được xem như sức mạnh ban sự sống của Người (52). Vì sự sáng tạo là khởi đầu lịch sử, nên Thần khí nói được là một quyền lực ẩn giấu đang hành động trong lịch sử, hướng dẫn lịch sử theo những con đường chân lý và điều thiện.

Mạc khải về thân thế của Chúa Thánh Thần, tình yêu hỗ tương giữa Chúa Cha và Chúa Con, là điều riêng biệt của Tân Ước. Trong tư tưởng Kitô giáo, Người được thấy như là nguồn mạch sự sống của mọi tạo vật. Công cuộc sáng tạo là sự thông ban tình yêu trong tự do của Thiên Chúa, một sự thông ban mà từ cái không, đem mọi sự vào trong hiện hữu. Không có gì đã được tạo dựng mà không được lấp đầy bởi sự trao đổi tình yêu không ngừng, là đặc tính của sự sống sâu thẳm của Ba Ngôi, nghĩa là tràn đầy Chúa Thánh Thần: "Thần khí Chúa đã tràn đầy thế giới" (Kn 17). Sự hiện diện của Thần Khí trong tạo thành phát sinh trật tự, hài hoà và lệ thuộc lẫn nhau trong tất cả những gì hiện hữu.

Được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, những con người trở nên nơi trú ngụ của Thần Khí một cách mới mẻ, khi họ được nâng lên tới phẩm giá làm con Thiên Chúa (x. Gl 4,5). Được tái sinh trong Bí tích Thánh Tẩy, con người cảm nghiệm sự hiện diện và quyền lực của Thần Khí, không chỉ là Tác giả sự sống, nhưng còn là Đấng thanh tẩy và cứu chuộc, sản sinh những hoa quả "bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ" (Gl 5,22-23). Những hoa quả đó của Thần Khí là tín hiệu "Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta" (Rm 5,5). Khi được tiếp nhận trong tự do, tình yêu này biến những người nam nữ thành những dụng cụ khả kiến của hoạt động không ngừng bên trong của Thánh Thần. Trên hết tất cả, chính khả năng cho và nhận tình yêu mới mẻ này minh chứng sự hiện diện bên trong và quyền lực của Chúa Thánh Thần. Như là hậu quả của việc biến đổi và tái tạo dựng mà Người thực hiện trong tâm trí dân chúng, Chúa Thánh Thần gây ảnh hưởng trên xã hội và văn hoá nhân loại (53). "Thật vậy, Thánh Thần là nguồn gốc những lý tưởng cao thượng và những công trình phúc lợi cho nhân loại đang hành trình qua dòng lịch sử. "Qua việc quan phòng kỳ diệu, Thánh Thần Chúa hướng dẫn dòng chảy thời gian và đổi mới mặt địa cầu" (54).

Theo hướng dẫn Công Đồng Vatican II, Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng để ý tới vô vàn hành động đa dạng của Chúa Thánh Thần, Ngài liên tục gieo những hạt giống chân lý giữa các dân tộc, tôn giáo, văn hoá và triết học của họ (55). Điều này có nghĩa là những tôn giáo, những văn hoá và triết lý đó có khả năng giúp đỡ dân chúng, cá nhân hay tập thể, chống lại sự dữ và phục vụ sự sống cũng như tất cả những gì là thiện hảo. Các quyền lực sự chết cô lập dân chúng, xã hội và các cộng đồng tôn giáo khác nhau, và sinh ra sự nghi ngờ và cạnh tranh đưa tới xung đột. Ngược lại, Chúa Thánh Thần nâng đỡ dân chúng trong việc tìm kiến sự hiểu biết và chấp nhận lẫn nhau. Do đó Chúa Thánh Thần nâng đỡ dân chúng trong việc tìm kiến sự hiểu biết và chấp nhận lẫn nhau.

Chúa Thánh Thần và Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập thể

16. Dưới sự hướng dẫn của Thần Khí, lịch sử cứu độ diễn ra trên sân khấu của thế giới, và của của vũ trụ nữa, theo chương trình đời đời của Chúa Cha. Chương trình đó, do Thánh Thần khởi sự từ khi bắt đầu việc sáng tạo, được mạc khải trong Cựu Ước, được hoàn thành nhờ ân sủng của Đức Giêsu Kitô, và được tiếp nối trong công cuộc sáng tạo mới nhờ cũng một Thần Khí cho tới khi Chúa lại đến trong vinh quang vào lúc kết thúc thời gian (56). Mầu nhiêm Nhập thể của Con Thiên Chúa là công trình cao trọng nhất của Chúa Thánh Thần: "Sự cưu mang và sinh ra Đức Giêsu Kitô thực tế là công trình cao cả nhất được thực hiện do Chúa Thánh Thần trong lịch sử sáng tạo và cứu chuộc: ân sủng tuyệt diệu – "ân sủng hiệp nhất", nguồn mạch mọi ơn khác" (57). Mầu nhiệm Nhập thể là biến cố mà trong đó Chúa tập hợïp về với chính mình, qua sự hợp nhất mới mẻ và chung cuộc, không những con người, mà còn toàn thể thọ tạo và tất cả lịch sử (58).

Được cưu mang trong lòng Đức Trinh Nữ Maria bởi phép Chúa Thánh Thần (x. Lc 1,35; Mt 1,20), Đức Giêsu thành Nadareth, Đấng Mêsia và Cứu Thế duy nhất, được đầy tràn Chúa Thánh Thần. Thần Khí xuống trên Người khi Người chịu phép rửa (x. Mc 1,10) và dẫn đưa Người vào hoang địa để được nên mạnh sức trước khi thi hành sứ vụ công khai của Người (Mc 1,12; Lc 4,1; Mt 4,1). Trong hội đường thành Nadareth, Người bắt đầu sứ vụ ngôn sứ của Người, bằng cách áp dụng cho chính mình thị kiến của ngôn sứ Isaia về sự xức dầu Thần Khí, dẫn tới việc rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, tự do cho kẻ bị giam cầm và một năm hồng ân của Thiên Chúa (x. Lc 4,18-19). Nhờ quyền năng của Thần Khí, Đức Giêsu chữa lành bệnh nhân và xua đuổi ma quỷ, như là một tín hiệu Nước Thiên Chúa đã đến (x. Mt 12,28). Sau khi từ kẻ chết chỗi dậy, Người đã thông ban cho các môn đệ Chúa Thánh Thần, Đấng mà Người đã hứa đổ tràn trên Giáo Hội khi Người trở về với Chúa Cha (x. Ga 20,22-23).

Tất cả những sự kiện đó chứng tỏ rằng sứ vụ của Đức Giêsu mang dấu vết rõ ràng sự hiện diện của Thần Khí: sự sống, sự sống mới. Giữa sự sai đi Chúa Con từ Chúa Cha và sự sai đi Thần Khí từ Chúa Cha và Chúa Con, có một sự liên hệ chặt chẽ và thiết yếu (59). Hành động của Thánh Thần trong sáng tạo và lịch sử nhân loại, đạt được một ý nghĩa hoàn toàn mới đối với hành động của Người trong đời sống và sứ vụ của Đức Giêsu. Những "hạt giống Lời" nhờ Thần Khí gieo xuống, chuẩn bị cho toàn thể thọ tạo, lịch sử và con người để đạt tới sự trưởng thành viên mãn trong Đức Kitô (60).

Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã diễn tả mối quan tâm đối với khuynh hướng tách biệt hoạt động của Chúa Thánh Thần với hoạt động của Đức Giêsu Cứu thế. Đáp lại quan tâm đó, tôi lặp lại ở đây những gì tôi đã viết trong Thông Điệp Redemptoris Missio: "(Thánh Thần) không thay thế Đức Kitô và cũng không lấp đầy một thứ chỗ trống mà đôi khi được gợi lên là hiện hữu giữa Đức Kitô và Ngôi Lời (Logos). Bất cứ cái gì mà Thánh Thần mang đến trong tâm hồn con người và lịch sử các dân tộc, trong các nền văn hoá và tôn giáo, thì giúp chuẩn bị cho Tin Mừng và chỉ có thể hiểu khi quy chiếu về Đức Kitô, Ngôi Lời đã mặc lấy thể xác nhờ quyền lực Thần Khí ‘ngõ hầu đã là con người hoàn hảo, Người cứu rỗi mọi người và qui tụ mọi sự’ " (61).

Cho nên sự hiện diện phổ quát của Chúa Thánh Thần không được dùng như lời bào chữa để khỏi công bố Đức Giêsu Kitô cách công khai như là Đấng Cứu độ độc nhất và duy nhất. Ngược lại, sự hiện diện phổ quát của Chúa Thánh Thần không thể tách biệt khỏi sự cứu độ phổ quát trong Đức Giêsu. Sự hiện diện của Thần Khí trong tạo vật và lịch sử chỉ về Đức Giêsu Kitô, nhờ Người mà tạo vật và lịch sử được cứu chuộc và thành toàn. Sự hiện diện của Thần Khí cả trước biến cố Nhập Thể và trong cao điểm lễ Ngũ Tuần luôn chỉ về Đức Giêsu và về sự cứu độ Người mang đến. Cũng thế, sự hiện diện phổ quát của Chúa Thánh Thần không bao giờ có thể bị tách biệt khỏi sự hoạt động của Người trong Thân Thể Đức Kitô, tức là Giáo Hội (62).

Chúa Thánh Thần và Thân Thể Đức Kitô

17. Chúa Thánh Thần gìn giữ nguyên vẹn sợi giây hiệp thông giữa Đức Giêsu và Giáo Hội Người. Ngự trong Giáo Hội cũng như ngự trong một đền thờ (x. 1 Cr 3,16), Thần Khí hướng dẫn Giáo Hội, trước hết để đạt đến chân lý toàn vẹn về Đức Giêsu. Sau đó chính Thần Khí ban sức mạnh cho Giáo Hội để tiếp tục sứ vụ của Đức Giêsu, trước nhất bằng cách làm chứng cho chính Đức Giêsu, sau đó hoàn thành điều Người đã hứa trước lúc chết và sống lại, tức là Người sẽ sai Thần Khí đến với các môn đệ để họ có sức làm chứng về Người (x. Ga 15,26-27). Công trình của Thần Khí trong Giáo Hội cũng là để làm chứng rằng các tín hữu là dưỡng tử của Thiên Chúa, những người được tiền định hưởng ơn cứu độ, được trọn vẹn hiệp thông với Chúa Cha, như đã hứa (x. Rm 8,15-17). Khi ban cho Giáo Hội những đoàn sủng và ân huệ khác nhau, Thần Khí làm cho Giáo Hội lớn lên trong hiệp thông, như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau (x. 1 Cr 12,4: Ep 4,11-16). Thần Khí hợp nhất mọi dân tộc, với những tập quán, những tài nguyên và tài năng khác nhau, biến Giáo Hội thành một dấu chỉ hiệp thông của toàn thể nhân loại dưới quyền lãnh đạo của Đức Kitô (63). Thần Khí uốn nắn Giáo Hội thành một cộng đoàn những chứng nhân để, nhờ quyền lực của Người, Giáo Hội làm chứng cho Đức Giêsu Cứu Thế (x. Cv 1,8). Theo nghĩa này, Chúa Thánh Thần là tác nhân chủ yếu của việc Phúc Âm hoá. Từ đó các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng có thể kết luận rằng, cũng như sứ vụ trần thế của Đức Giêsu được hoàn thành trong quyền lực Chúa Thánh Thần, thì "cũng một Thần Khí đã được ban cho Giáo Hội bởi Chúa Cha và Chúa Con trong ngày lễ Ngũ Tuần, để hoàn thành sứ vụ tình yêu và phục vụ của Đức Giêsu tại Á Châu" (64).

Chương trình cứu độ con người của Chúa Cha, không kết thúc với sự chết và phục sinh của Đức Giêsu. Nhờ ân huệ của Thần Khí Đức Kitô, hoa quả sứ vụ cứu rỗi của Người được Giáo Hội ban tặng cho mọi dân tộc thuộc mọi thời đại, qua sự loan truyền Tin Mừng và phục vụ yêu thương đối với gia đình nhân loại. Như Công Đồng Vatican II nhận xét, "Chúa Thánh Thần thúc đẩy Giáo Hội cộng tác với Người để hoàn tất trọn vẹn kế hoạch của Thiên Chúa là Đấng đã đặt Đức Kitô làm nguồn ơn cứu độ cho cả thế giới" (65). Được Thần Khí ban quyền thực hiện sự cứu độ của Đức Kitô trên mặt đất, Giáo Hội là hạt giống của Nước Chúa và tha thiết mong đợi sự hình thành chung cuộc của nó. Căn tính và sứ mạng của Giáo Hội không tách biệt khỏi Nước Chúa, Nước mà Đức Giêsu đã loan báo và khai mào trong tất cả những gì Người đã nói và đã làm, nhất là trong sự chết và sống lại của Người. Thần Khí nhắc Giáo Hội nhớ rằng Giáo Hội không phải là cùng đích cho chính mình; trong tất cả những gì Giáo Hội là và làm, thì Giáo Hội hiện hữu để phục vụ Đức Kitô và sự cứu độ thế giới. Trong nhiệm cục cứu độ này, những công trình của Chúa Thánh Thần trong tạo vật, trong lịch sử và trong Giáo Hội, tất cả là thành phần của một kế hoạch đời đời của Ba Ngôi trên tất cả những gì hiện hữu.

Chúa Thánh Thần và Sứ Vụ của Giáo Hội tại Á Châu

18. Thánh Thần, Đấng đã hành động trên Á Châu trong thời các Tổ Phụ và ngôn sứ, và còn mãnh liệt hơn nữa trong thời Đức Giêsu và Giáo Hội sơ khai, bây giờ vẫn tác động giữa các người Kitô hữu Á Châu, bằng cách củng cố chứng tá đức tin của họ giữa các dân tộc, các nền văn hoá và tôn giáo của lục địa. Cũng như cuộc đối thoại tình yêu vĩ đại giữa Thiên Chúa và con người được Thần Khí chuẩn bị và được thực hiện trên phần đất Á Châu qua mầu nhiệm Đức Kitô, thì ngày nay cuộc đối thoại giữa Chúa Cứu Thế và các dân tộc trên lục địa, vẫn tiếp tục nhờ quyền lực của cùng một Chúa Thánh Thần hoạt động trong Giáo Hội. Trong tiến trình này, các giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân nam nữ, tất cả đều có một vai trò thiết yếu, vì nhớ lời Đức Giêsu, vừa là lời hứa và cũng là lệnh truyền: "Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất" (Cv 1,8).

Giáo Hội xác tín rằng, sâu trong lòng dân chúng, các nền văn hoá và tôn giáo tại Á Châu, có một cơn khát "Nước Hằng sống" (x. Ga 4,10-15), một cơn khát chính Thần Khí đã tạo ra và chỉ mình Đức Giêsu Cứu Thế mới có thể thoả mãn trọn vẹn. Giáo Hội trông chờ Chúa Thánh Thần tiếp tục chuẩn bị các dân tộc Á Châu vào cuộc đối thoại cứu độ với Đấng Cứu Thế của mọi người. Được Thần Khí hướng dẫn trong sứ vụ phục vụ và tình yêu, Giáo Hội có thể trao tặng một cuộc gặp gỡ giữa Đức Kitô và các dân tộc tại Á Châu khi họ đi tìm cuộc sống viên mãn. Chỉ trong cuộc gặp gỡ đó, mới gặp được nguồn Nước Hằng Sống vọt đến sự sống đời đời, nghĩa là, sự hiểu biết một Thiên Chúa duy nhất và Đức Giêsu Kitô mà Người đã sai đến (x. Ga 17,3).

Giáo Hội biết rõ rằng mình chỉ có thể hoàn thành sứ vụ khi nghe theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần. Khi dấn thân làm dấu hiệu và dụng cụ đích thực cho hoạt động của Thần Khí trong những thực tại phức tạp tại Á Châu, Giáo Hội phải biện phân, giữa tất cả hoàn cảnh khác nhau của lục địa, tiếng Thần Khí mời gọi làm chứng cho Đức Giêsu bằng những cung cách mới và có hiệu quả. Chân lý trọn vẹn về Đức Giêsu và sự cứu độ mà họ đã đạt được luôn là một ân huệ, chớ không bao giờ là thành quả của nỗ lực con người. "Chính Thần Khí chứng thực cho thần khí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. Vậy, đã là con, thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Đức Kitô" (Rm 8,16-17). Do đó Giáo Hội không ngừng kêu lên: "Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến! Xin hãy tràn đầy tâm hồn các tín hữu Chúa và đốt lên trong họ ngọn lửa tình yêu của Chúa!" Đó là ngọn lửa mà Đức Giêsu ném trên mặt đất. Giáo Hội tại Á Châu chia sẻ niềm ước mong của Người cho ngọn lửa đó giờ đây lại bừng cháy lên (x. Lc 1249). Với lòng ao ước nồng cháy này, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã tìm cách biện biệt những lãnh vực truyền giáo chính yếu cho Giáo Hội tại Á Châu, đang lúc Giáo Hội này bước qua ngưỡng cửa ngàn năm thứ ba.

CHƯƠNG IV

ĐỨC GIÊSU ĐẤNG CỨU THẾ:
LOAN BÁO ƠN HUỆ

Vị trí Ưu Tiên của Việc Loan Báo

19. Ở ngưỡng cửa ngàn năm thứ ba, tiếng Đức Giêsu phục sinh lại vang dội trong tâm hồn mỗi người Kitô hữu: "Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,18-20). Xác tín vào sự giúp đỡ liên lỉ của chính Đức Giêsu cũng như sự hiện diện và quyền năng của Thần khí của Người, các tông đồ ra đi tức khắc sau lễ ngũ tuần để hoàn thành lệnh truyền này: "các Tông Đồ ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông" (Mc 16,20). Những gì các ông loan báo có thể tóm tắt trong những lời Thánh Phaolô: "Bởi chúng tôi không rao giảng chính mình, mà chỉ rao giảng Đức Kitô Giêsu là Chúa; còn chúng tôi, chúng tôi chỉ là tôi tớ của anh em, vì Đức Giêsu" (2 Cr 4,5). Được chúc phúc với ơn đức tin, Giáo Hội, sau 2000 năm, tiếp tục ra đi gặp gỡ các dân tộc của thế giới, để chia sẻ cho họ Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô. Giáo Hội là một cộng đồng rực cháy sự hăng say truyền giáo, để làm cho Đức Giêsu được biết, yêu mến và đi theo.

Không thể có Phúc Âm hoá thực sự mà không có loan báo công khai về Đức Giêsu là Chúa. Để trả lời cho một sự lầm lẫn về bản tính chân thật của sứ mạng Giáo Hội, thì Công Đồng Vatican II và huấn quyền từ đó, đã luôn luôn nhấn mạnh vị trí ưu tiên của việc rao giảng về Đức Giêsu Kitô trong mọi hoạt động Phúc Âm hoá. Như Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã minh nhiên viết rằng "không thể có việc Phúc Âm hoá thật nếu danh xưng, lời giảng dạy, sự sống, những lời hứa, vương quốc và mầu nhiệm Đức Giêsu thành Nadareth, Con Thiên Chúa, không được loan báo" (66). Đó là điều các thế hệ Kitô hữu đã làm suốt bao thế kỷ. Với một sự hãnh diện có thể hiểu được, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhắc lại rằng: "Nhiều cộng đoàn Kitô hữu tại Á Châu đã gìn giữ đức tin của mình suốt bao thế kỷ dẫu trải qua những đau khổ lớn lao, và đã bám trụ vào gia sản thiêng liêng này với sự kiên trì dũng cảm. Đối với họ, chia sẻ kho tàng lớn lao này là một niềm vui lớn và cấp thiết" (67).

Đồng thời, các vị tham gia Hội nghị đặc biệt đã xác nhận không biết bao nhiêu lần sự cần thiết tái dấn thân vào việc rao giảng Đức Giêsu Kitô chính trên lục địa đã thấy khởi sự việc rao giảng này cách đây 2000 năm. Những lời thánh Phaolô Tông đồ lại càng trở nên nhức nhối hơn, bởi lẽ nhiều người trên lục địa này chưa bao giờ gặp được con người Đức Giêsu cách rõ ràng và ý thức: "Tất cả những ai kêu cầu Danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát. Thế nhưng làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ có thể tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe nếu không có ai rao giảng?" (Rm 10,13-14). Câu hỏi lớn mà Giáo Hội tại Á Châu đang giáp mặt là làm sao chia sẻ với các anh chị em tại Á Châu về kho tàng chúng ta có, như là một ân huệ chứa đựng tất cả các ân huệ khác, đó là Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô.

Loan Báo Đức Giêsu Kitô tại Á Châu

20. Giáo Hội tại Á Châu tha thiết hơn với công tác rao giảng, vì biết rằng "nhờ hoạt động của Thần Khí, đã có saün nơi các cá nhân và các dân tộc một sự mong chờ, cho dầu vô ý thức, mong chờ được biết chân lý về Thiên Chúa, về con người, và về cách thức thoát khỏi tội lỗi và sự chết" (68). Sự nhấn mạnh đến việc rao giảng đó không bị thúc đẩy bởi áp lực các bè phái, cũng không phải bởi tinh thần xúi nhập đạo, cũng không phải do ý thức tự tôn nào cả. Giáo Hội rao giảng Tin Mừng vì vâng lời lệnh truyền của Đức Kitô, biết rằng mọi người có quyền nghe Tin Mừng của Thiên Chúa, Đấng mạc khải và hiến mình trong Đức Kitô (69). Làm chứng về Đức Giêsu Kitô là công việc phục vụ cao cả nhất mà Giáo Hội có thể trao tặng cho các dân tộc Á Châu, bởi vì việc đó đáp ứng với sự ước mong sâu xa của họ được gặp Đấng Tuyệt Đối, và nó cũng vén mở những chân lý và những giá trị bảo đảm sự phát triển toàn diện con người.

Vì ý thức sâu xa đến tính phức tạp của rất nhiều hoàn cảnh khác nhau tại Á Châu, và phải "nói sự thật trong tình bác ái" (Ep 4,15), nên Giáo Hội loan báo Tin Mừng với lòng kính nể và tôn trọng đầy yêu thương đối với thính giả của mình. Việc loan báo mà tôn trọng các quyền của lương tâm thì không xúc phạm tự do, bởi vì đức tin luôn đòi hỏi một sự đáp trả tự do về phía cá nhân (70). Tuy nhiên sự kính trọng không loại đi sự cần thiết phải rao giảng công khai Tin Mừng trong sự toàn vẹn của nó. Cách riêng trong bối cảnh nhiều nền văn hoá và tôn giáo tại Á Châu, phải nêu rõ rằng "không phải sự kính nể và tôn trọng các tôn giáo này, cũng không phải tính phức tạp của các vấn đề nẩy sinh, là một lời mời gọi Giáo Hội rút lui khỏi sự rao giảng Đức Giêsu cho những người không Kitô hữu này" (71). Khi viếng thăm Aán Độ năm 1986, tôi đã phát biểu rõ ràng rằng: "việc Giáo Hội tiếp xúc với các tôn giáo khác là một tiếp xúc đầy kính trọng chân thành…Sự kính trọng này có hai mặt: kính trọng đối với con người khi họ tìm câu trả lời cho các vấn đề sâu xa nhất về cuộc sống của họ, và sự kính trọng đối với hoạt động Thần Khí trong con người" (72). Thật vậy, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng saün sàng nhìn nhận hoạt động của Thần Khí trong các xã hội, văn hoá và tôn giáo Á Châu, nhờ đó mà Chúa Cha chuẩn bị tâm hồn cho các dân tộc Á Châu đón nhận đầy đủ sự sống trong Đức Kitô (73).

Trong các cuộc thăm dò trước khi họp Thượng Hội Đồng, nhiều Giám Mục Á Châu nhắc đến các khó khăn khi rao giảng Đức Giêsu như Đấng Cứu độ duy nhất. Trong Hội Nghị, hoàn cảnh được diễn tả như vầy: "Một số người theo các tôn giáo lớn tại Á Châu, không có vấn đề gì khi chấp nhận Đức Giêsu như một hiển hình của Thần Thánh hay Đấng Tuyệt Đối, hay là một minh chủ (enlightened one). Nhưng đối với họ thật khó mà công nhận Người như một hiển hình duy nhất của Thiên Chúa" (74). Thật thế, nỗ lực chia sẻ ơn huệ đức tin vào Đức Giêsu như Đấng Cứu Độ duy nhất, gặp đầy dẫy những khó khăn về phương diện triết học, văn hoá và thần học, đặc biệt trong ánh sáng của những niềm tin của các tôn giáo lớn tại Á Châu, đan kết sâu xa với các giá trị văn hoá và những lối nhìn riêng biệt về thế giới.

Theo ý kiến của các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng, cái khó là do sự kiện Đức Giêsu thường bị coi xa lạ với Á Châu. Điều nghịch lý là phần lớn người Á Châu có khuynh hướng nhìn Đức Giêsu -sinh ra trong phần đất Á Châu- như là một nhân vật Âu Châu hơn là Á Châu. Việc rao giảng Tin Mừng do các nhà truyền giáo Âu Châu chịu ảnh hưởng bởi các nền văn hoá nơi các Ngài phát xuất là điều không thể tránh được. Các nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã công nhận đó là sự kiện không thể tránh được trong lịch sử truyền giáo. Đồng thời các Nghị Phụ trong dịp này "bày tỏ cách hết sức đặc biệt lòng biết ơn của các ngài đối với tất cả các vị thừa sai, nam cũng như nữ, tu sĩ cũng như giáo dân, ngoại kiều hay bản xứ, đã mang đến sứ điệp của Đức Giêsu Kitô và ơn huệ đức tin. Một lời cảm ơn đặc biệt nữa phải được biểu lộ đối với những Giáo Hội địa phương đã sai và còn sai các vị thừa sai đến Á Châu" (75).

Những nhà truyền giáo có thể tin tưởng, dựa vào kinh nghiệm của thánh Phaolô, vị đã lao mình vào cuộc đối thoại với những giá trị mang tính triết học, văn hoá và tôn giáo của những thính giả (x. Cv 14, 13-17; 17, 22-31). Chính các công đồng chung của Giáo Hội, khi soạn thảo những công thức đức tin của Giáo Hội, đã phải sử dụng những vốn ngôn ngữ, triết học, văn hoá mà họ có trong tầm tay. Như vậy, những vốn đó trở thành một tài sản chung của toàn thể Giáo Hội, có khả năng phát biểu học thuyết Kitô của mình một cách xứng hợp và phổ quát. Chúng thuộc về gia tài đức tin, mà ta phải chiếm hữu và không ngừng chia sẻ lại khi gặp gỡ với các nền văn hoá khác nhau (76). Như vậy sứ vụ rao giảng Đức Giêsu theo một cách thức làm cho các dân tộc Á Châu được đồng hoá với Người, đang khi vẫn trung thành với giáo thuyết thần học của Giáo Hội và với những nguồn gốc Á Châu của mình, sứ vụ đó là một thách đố tột bậc.

Việc trình bày Đức Giêsu Kitô là một Đấng Cứu Độ duy nhất, cần phải theo một khoa sư phạm, từng bước dẫn đưa dân chúng đến việc đón nhận trọn vẹn mầu nhiệm. Rõ ràng là việc loan báo Tin mừng lần đầu tiên những người không kitô hữu, và việc rao giảng Đức Giêsu tiếp theo đó cho những kẻ tin, phải khác nhau trong cách tiếp cận. Trong lần loan báo đầu tiên, chẳng hạn, "có thể trình bày Đức Giêsu Kitô như sự hoàn thành những khát vọng được diễn tả trong các thần thoại và văn học dân gian của các dân tộc Á Châu" (77). Nói chung, phương pháp kể truyện, quen thuộc với văn hoá Á Châu, thì đáng được dùng ưu tiên. Quả thực, việc rao giảng Đức Giêsu Kitô có thể có hiệu quả nhất bằng cách kể lại câu chuyện về Người, như sách Phúc Âm làm. Các khái niệm hữu thể học có liên quan, mà phải luôn luôn được hàm ý và diễn tả khi đang trình bày về Đức Giêsu, có thể được bổ sung nhờ những viễn tượng có tính cách tương quan, lịch sử và cả đến tính vũ trụ. Các Nghị Phụ lưu ý, Giáo Hội phải cởi mở với những phương cách mới và gây ngạc nhiên, nhờ vậy mà gương mặt Đức Giêsu có thể được trình bày tại Á Châu (78).

Thượng Hội Đồng khuyến cáo rằng việc dạy giáo lý tiếp sau đó, phải theo "một khoa sư phạm có tính gợi ý, sử dụng những câu truyện, những dụ ngôn và những biểu tượng rất đặc trưng của phương pháp giảng dạy Á Châu" (79). Sứ vụ của chính Đức Giêsu cho thấy rõ giá trị của việc tiếp xúc cá nhân, điều này đòi hỏi nhà truyền giáo phải lưu tâm đến hoàn cảnh người nghe, để có thể cống hiến một sự loan báo tương xứng với trình độ trưởng thành của người nghe, qua một hình thức và ngôn ngữ xứng hợp. Trong viễn tượng này, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhiều lần đã nhấn mạnh đến nhu cầu loan báo Tin mừng bằng một cách thức có thể lôi cuốn tính nhạy cảm của người dân Á Châu, và các ngài nêu lên những hình ảnh về Đức Giêsu có thể hiểu được theo tâm trí và văn hoá Á Châu và đồng thời, trung thành với Kinh Thánh và truyền thống. Trong những hình ảnh đó, có những hình ảnh "Đức Giêsu là Thầy dạy sự khôn ngoan, Vị Lương y, Đấng Giải phóng, Vị Hướng dẫn đàng thiêng liêng, Minh chủ, Người Bạn giàu lòng thương xót của kẻ nghèo, Người Samaritanô nhân hậu, Vị Mục tử nhân lành, Đấng vâng phục" (80). Đức Giêsu có thể được trình bày như là sự khôn ngoan nhập thể của Thiên Chúa. Ân sủng của Người mang lại hoa trái cho "những hạt giống" của Đấng khôn Ngoan đã hiện diện trong cuộc sống, tôn giáo và các dân tộc của Á Châu (81). Giữa nhiều đau khổ các dân tộc Á Châu phải gánh chịu, Đức Giêsu có thể được rao giảng tốt nhất như là Đấng Cứu độ, "Đấng có thể đem lại ý nghĩa cho những ai đang trải qua những đau khổ và đau đớn không thể tả được" (82).

Đức tin mà Giáo Hội cống hiến như một ân huệ cho con cái mình, không thể bị giam giữ bên trong những giới hạn của sự hiểu biết và sự diễn tả riêng của một nền văn hoá nhân bản nào, bởi vì nó vượt lên trên những giới hạn này và còn thách thức mọi nền văn hoá tiến lên những chiều cao mới mẻ của sự hiểu biết và diễn tả. Nhưng đồng thời, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng ý thức rõ về nhu cầu khẩn khiết của Giáo Hội tại Á Châu, muốn trình bày mầu nhiệm Đức Kitô cho các dân tộc mình, theo những kiểu mẫu văn hoá và cách suy nghĩ của họ. Các Ngài chỉ rõ rằng việc hội nhập đức tin như thế trên lục địa các Ngài, gồm có việc tái khám phá khuôn mặt Á Châu của Đức Giêsu và việc tìm ra những phương cách để các nền văn hoá Á Châu có thể nắm bắt ý nghĩa cứu độ phổ quát của mầu nhiệm Đức Giêsu và Giáo Hội Người (83). Trong thời đại hôm nay, cần làm sống lại sự hiểu biết sâu sắc về các dân tộc và văn hoá mà đã có được một cách gương mẫu nơi những con người như Gioan Montecorvino, Matteo Ricci và Roberto de Nobili, đây chỉ nhắc tới một ít người thôi.

Thách Đố của việc Hội Nhập Văn Hoá

21. Văn hoá là không gian sống trong đó con người đến với Tin Mừng, mặt giáp mặt. Cũng như văn hoá là thành quả của sự sống và hoạt động của một nhóm người, thì những con người thuộc nhóm đó cũng được uốn nắn trong phạm vi rộng rãi bởi nền văn hoá trong đó họ đang sống. Vì con người và xã hội thay đổi, nền văn hoá cũng bị thay đổi theo. Vì văn hoá biến đổi nên con người và xã hội cũng biến đổi theo nó. Từ viễn ảnh này, ta thấy rõ ràng hơn tại sao việc Phúc Âm hoá và hội nhập văn hoá liên hệ với nhau cách tự nhiên và mật thiết. Tin Mừng và việc rao giảng Tin Mừng chắc chắn không đồng nhất với văn hoá; chúng độc lập với văn hoá. Tuy nhiên Nước Thiên Chúa đến với những con người gắn bó sâu xa với một nền văn hoá, và việc xây dựng Vương Quốc không tránh khỏi mượn các yếu tố từ các nền văn hoá nhân bản. Vì thế Đức Phaolô VI nói sự chia tách giữa Tin Mừng và văn hoá là thảm trạng của thời đại chúng ta, với một tác động sâu xa trên cả việc rao giảng Tin Mừng lẫn văn hoá (84).

Trong quá trình gặp gỡ các nền văn hoá khác nhau của thế giới, Giáo Hội không những truyền đạt các chân lý và những giá trị của mình và đổi mới các nền văn hoá từ bên trong, nhưng Giáo Hội cũng tiếp thu từ các nền văn hoá khác nhau, những yếu tố tích cực có saün trong các nền văn hoá đó. Đó là con đường bắt buộc cho những nhà rao giảng Tin Mừng khi trình bày đức tin Kitô giáo và làm cho nó trở nên một thành phần của di sản văn hoá của một dân tộc. Về phần mình, khi các nền văn hoá khác nhau được hoàn thiện và canh tân dưới ánh sáng của Tin mừng, chúng có thể trở nên những diễn tả đích thực của đức tin kitô giáo duy nhất. "Nhờ hội nhập văn hoá mà Giáo Hội, về phần mình, đã trở nên một dấu chỉ dễ hiểu hơn về bản tính của mình, và trở nên một dụng cụ hữu hiệu hơn cho việc truyền giáo" (85). Sự giao kết đó với các nền văn hoá đã luôn là thành phần cuộc hành trình của Giáo Hội qua lịch sử. Nhưng ngày nay sự giao kết đó càng cấp bách cách đặc biệt trong cảnh huống đa-dân-tộc, đa-tôn-giáo, đa-văn-hoá tại Á Châu, nơi mà Kitô giáo vẫn thường còn bị coi là ngoại lai.

Tới đây, quả là tốt khi nhớ lại những gì thường được lặp đi lặp lại trong Thượng Hội Đồng: Chúa Thánh Thần là tác nhân chính của sự hội nhập văn hoá của đức tin Kitô giáo tại Á Châu (86). Cũng một Chúa Thánh Thần, Đấng dẫn dắt chúng ta đến chân lý toàn diện, làm cho có thể thực hiện được một cuộc đối thoại có hiệu quả với các giá trị văn hoá và tôn giáo các dân tộc khác nhau. Người hiện diện giữa họ trong một mức độ nào đó, ban sức mạnh cho các người nam nữ thành tâm thiện chí, để họ chiến thắng sự dữ và sự lừa đảo của Thần Dữ, và ban tặng cho mỗi người khả năng thông dự vào mầu nhiệm Phục Sinh, bằng cách nào đó Chúa biết (87). Sự hiện diện của Thần Khí bảo đảm rằng sự đối thoại diễn ra trong chân lý, trong lương thiện, khiêm tốn và kính trọng (88). "Khi ban tặng cho kẻ khác Tin Mừng cứu rỗi, Giáo Hội cố gắng tìm hiểu nền văn hoá của họ. Giáo Hội tìm hiểu tâm trí kẻ nghe, các giá trị và tập quán của họ, các vấn đề và những khó khăn của họ, những hy vọng và những ước mơ của họ. Một khi Giáo Hội hiểu biết những khía cạnh văn hoá khác nhau đó, thì bấy giờ Giáo Hội mới có thể bắt đầu cuộc đối thoại cứu rỗi; Giáo Hội có thể trao tặng, cách kính cẩn nhưng rõ ràng và đầy xác tín, Tin Mừng cứu chuộc cho những ai muốn nghe và tự do đáp trả" (89). Do đó, các dân tộc Á Châu nào, trong tư cách là người Á Châu, mà muốn chiếm hữu đức tin Kitô giáo, thì có thể yên tâm rằng những hy vọng, những trông đợi, những âu lo và đau khổ của họ không những được Đức Giêsu ôm lấy, mà còn trở thành điểm đích thực để ân huệ đức tin và quyền năng Thần Khí đi vào trong cốt lõi thâm sâu nhất của đời sống họ.

Nhiệm vụ của các vị Chủ Chăn, do đoàn sủng của các ngài, là phải hướng dẫn cuộc đối thoại này cách sáng suốt. Cũng vậy, những chuyên viên về các khoa học đạo và đời, đóng những vai trò quan trọng trong quá trình hội nhập văn hoá. Nhưng quá trình phải bao gồm toàn thể dân Chúa, bởi vì đời sống Giáo Hội như một toàn thể, phải tỏ bày đức tin đang được rao giảng và được tiếp thu. Để bảo đảm cho việc này được thực hiện có chiều sâu, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng xác định một vài lãnh vực đáng chú ý riêng – suy tư thần học, phụng vụ, đào tạo các linh mục và tu sĩ, dạy giáo lý và tu đức (90).

Những Lãnh Vực Chủ Chốt của Việc Hội Nhập Văn Hoá

22. Thượng Hội Đồng khích lệ các nhà thần học trong công tác tế nhị của họ làm phát triển khoa thần học hội nhập (une théologie inculturée), cách riêng trong lãnh vực Kitô học (91). Các ngài lưu ý rằng "việc suy tư thần học này phải được thực hiện cách can đảm, trong sự trung thành với Kinh Thánh và truyền thống của Giáo hội, trong sự gắn bó chân thành với Huấn Quyền và trong sự hiểu biết về những thực tại mục vụ" (92). Tôi cũng thôi thúc các nhà thần học làm việc trong tinh thần hợp nhất với các Chủ Chăn và dân chúng, những người- luôn hợp nhất với nhau và không bao giờ chia tách nhau- "phản chiếu cảm thức đức tin chân chính mà ta không bao giờ được thôi nhìn" (93). Công trình thần học phải luôn luôn được hướng dẫn bởi sự kính trọng đối với những nhạy cảm của người Kitô hữu, để nhờ sự tăng trưởng dần dần hướng về những hình thức hội nhập biểu tỏ đức tin, dân chúng không bị hoang mang hay bị vấp phạm. Trong mọi trường hợp, việc hội nhập văn hoá phải được hướng dẫn bởi sự tương hợp với Tin Mừng và sự hiệp thông với đức tin của toàn thể Giáo Hội, trong sự thuận theo hoàn toàn với truyền thống Giáo Hội và với mục đích làm cho đức tin dân chúng nên vững mạnh (94). Trắc nghiệm của việc hội nhập văn hoá đích thực, là xem dân chúng có trở nên gắn bó hơn với đức tin Ki tô giáo của mình hay không, bởi vì họ thấy đức tin rõ hơn bằng cặp mắt thuộc về văn hoá của họ.

Phụng Vụ
là nguồn gốc và là tuyệt đỉnh của tất cả đời sống Kitô hữu và truyền giáo (95). Phụng Vụ là một phương tiện quyết định của việc rao giảng Tin Mừng, nhất là tại Á Châu, nơi mà những người theo đạo khác nhau rất ưa thích việc tế tự, những lễ hội tôn giáo và những việc đạo đức bình dân (96). Phụng Vụ của các Giáo Hội Phương Đông phần lớn đã được hội nhập văn hoá có kết quả sau bao thế kỷ tương tác với nền văn hoá xung quanh, nhưng những Giáo Hội được thành lập mới đây cần làm sao để phụng vụ trở nên nguồn mạch nuôi dưỡng hơn cho dân chúng, qua việc sử dụng khôn ngoan và hiệu năng các yếu tố rút ra từ các nền văn hoá địa phương. Nhưng sự hội nhập Phụng vụ đòi hỏi nhiều điều hơn là việc chú tâm vào những giá trị văn hoá truyền thống, những biểu tượng và những nghi thức. Cũng cần lưu ý đến những thay đổi trong ý thức và thái độ gây ra do sự xuất hiện của các nền văn hoá trần tục và hưởng thụ đang ảnh hưởng đến cảm thức phụng tự và cầu nguyện của người Á Châu. Cũng không được bỏ qua những nhu cầu riêng biệt của người nghèo, người di dân, người tị nạn, giới trẻ và phụ nữ trong bất cứ việc hội nhập phụng vụ chân chính nào tại Á Châu.

Các Hội Đồng Giám Mục quốc gia và miền, cần phải làm việc chặt chẽ hơn với Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích, trong việc tìm kiếm những phương thức có hiệu năng để cổ võ những hình thức phụng tự thích hợp trong bối cảnh Á Châu (97). Sự hợp tác này là cần thiết bởi vì Phụng vụ thánh diễn tả và cử hành một đức tin được mọi người tuyên xưng và, bởi Phụng vụï thánh là gia sản của toàn thể Giáo Hội, nên không thể do các Giáo Hội địa phương định đoạt cách riêng rẽ khỏi Giáo Hội hoàn vũ.

Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhấn mạnh cách riêng đến tầm quan trọng của Lời Kinh Thánh trong việc loan truyền sứ điệp cứu độ cho các dân tộc Á Châu, nơi mà Lời được loan truyền có một vai trò quan trọng trong việc giữ gìn và truyền đạt kinh nghiệm tôn giáo (98). Cho nên cần phát triển một hình thức tông đồ hữu hiệu nhằm phổ biến kinh thánh, hầu có thể đảm bảo rằng bản văn Kinh Thánh được phổ biến rộng rãi hơn và được sử dụng thường xuyên và trong tinh thần cầu nguyện hơn giữa các phần tử Giáo Hội tại Á Châu. Các nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhấn mạnh rằng thật là cấp bách việc dùng Kinh Thánh như là nền tảng cho tất cả mọi việc loan báo, dạy giáo lý, giảng thuyết và hình thức linh đạo truyền giáo (99). Cần phải cổ động và nâng đỡ những cố gắng dịch thuật Kinh Thánh ra tiếng địa phương. Đào tạo về Kinh Thánh phải được coi như một phương tiện quan trọng để giáo dục đức tin cho dân chúng và chuẩn bị họ cho công việc loan báo. Cần phải đưa vào chương trình đào tạo giáo sĩ, những người sống đời thánh hiến và giáo dân những khoá học Kinh Thánh hướng về mục vụ, với sự nhấn mạnh thích đáng về việc áp dụng huấn giáo Kinh Thánh vào những thực tại phức tạp của đời sống Á Châu (100). Kinh Thánh cũng phải phổ biến giữa những người theo các tôn giáo khác; Lời Chúa có một quyền lực nội tại đánh động tâm hồn dân chúng, bởi vì qua Kinh Thánh, Chúa Thánh Thần mạc khải kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa đối với thế gian. Hơn nữa những lối văn tường thuật gặp được trong nhiều sách Kinh Thánh, có một quan hệ tương đồng với những bản văn tôn giáo điển hình của Á Châu (101).

Một khía cạnh mấu chốt nữa của việc hội nhập văn hoá, có ảnh hưởng phần lớn tới tương lai của tiến trình, đó là sự đào tạo những người rao giảng Tin Mừng. Trong quá khứ, việc đào tạo thường theo kiểu cách, phương pháp và chương trình du nhập từ phương Tây, và tuy đánh giá cao ích lợi do phương pháp đào tạo đó mang lại, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhìn nhận là một phát triển tích cực, các cố gắng thực hiện trong những thời gian gần đây để thích nghi việc đào tạo những người rao giảng Tin Mừng với những bối cảnh văn hoá tại Á Châu. Cùng với việc có được một nền tảng vững chắc do sự học hỏi về Kinh Thánh và các Thánh Giáo Phụ, các chủng sinh phải nắm vững cách chắc chắn và chi tiết gia sản thần học và triết học của Giáo Hội, như tôi đã thúc giục trong Thông điệp Fides et Ratio (102). Trên nền tảng của sự chuẩn bị đó, các chủng sinh mới thu nhiều ích lợi khi tiếp xúc với những truyền thống triết học và tôn giáo tại Á Châu (103). Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cũng khích lệ các giáo sư và các cộng tác viên tìm hiểu cách sâu sắc những yếu tố thuộc tu đức và cầu nguyện, thân thuộc với tâm hồn Á Châu, và dấn mình sâu hơn nữa vào công cuộc tìm kiếm một đời sống trọn vẹn hơn của các dân tộc Á Châu (104). Để đạt mục đích này, cần nhấn mạnh đến việc đào tạo thích đáng ban giáo sư chủng viện (105). Thượng Hội Đồng cũng biểu lộ mối quan tâm về việc đào tạo các tu sĩ nam nữ sống đời thánh hiến, bằng cách tuyên bố rõ ràng rằng linh đạo và nếp sống của những người được thánh hiến, cần phải nhạy cảm với gia sản tôn giáo và văn hoá của những người họ đang chung sống và đang phục vụ, với giả định là cần phải phân biệt cái gì phù hợp với Tin Mừng, cái gì không (106). Hơn nữa, bởi vì việc hội nhập văn hoá Tin Mừng dính dáng đến toàn thể dân Chúa, vai trò người giáo dân có tầm quan trọng tột bậc. Chính họ là những người hơn ai hết được kêu gọi biến đổi xã hội, trong sự hợp tác với các Giám mục, giáo sĩ và tu sĩ, bằng cách làm cho "tinh thần Đức Kitô" thâm nhập vào trong não trạng, tập quán, luật pháp và cấu trúc của thế giới trần tục nơi họ đang sống (107). Một sự hội nhập văn hoá rộng rãi hơn cho Tin Mừng, ở mọi cấp bậc xã hội tại Á Châu, phần lớn tuỳ thuộc vào sự đào tạo xứng hợp mà các Giáo Hội địa phương dành cho giáo dân.

Đời Sống Kitô Hữu xét như là một lời loan báo

23. Cộng đồng Kitô hữu càng đâm rễ sâu trong kinh nghiệm về Thiên Chúa xuất phát từ một đức tin sống động, thì càng khả tín về khả năng rao giảng cho kẻ khác biết sự hoàn thành của Nước Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Đó là kết quả của việc trung thành nghe Lời Chúa, cầu nguyện và chiêm ngưỡng, cử hành mầu nhiệm Đức Giêsu trong các bí tích, nhất là trong bí tích Thánh Thể, và nêu gương về sự hiệp thông sự sống đích thật và yêu thương trọn vẹn. Trái tim của Giáo Hội địa phương phải hướng về việc chiêm ngưỡng Đức Giêsu Kitô, Thiên-Chúa-làm-người, và liên lỉ ra sức kết hiệp mật thiết hơn với Đấng mà mình tiếp tục sứ vụ. Việc truyền giáo là hành động bằng chiêm ngưỡng và là sự chiêm ngưỡng bằng hành động. Do đó một nhà truyền giáo mà không có kinh nghiệm sâu sắc về Thiên Chúa qua kinh nguyện và chiêm ngưỡng, thì sẽ có ít ảnh hưởng thiêng liêng hay thành công về mặt truyền giáo. Đây là một suy tư rút ra từ thừa tác vụ linh mục của riêng tôi và, như tôi đã viết nơi khác, sự tiếp xúc của tôi với các đại diện những truyền thống thiêng liêng không Kitô giáo, nhất là của Á Châu, đã củng cố tôi trong xác tín rằng tương lai của việc truyền giáo tùy thuộc phần lớn vào việc chiêm ngưỡng (108). Tại Á Châu, quê hương của các tôn giáo lớn, nơi mà các cá nhân cũng như toàn thể dân chúng đang khao khát cái thiêng thánh, Giáo Hội được mời gọi trở nên một Giáo Hội cầu nguyện, hoàn toàn thánh thiêng dù dấn thân trong những mối quan tâm trực tiếp về mặt nhân bản và xã hội. Tất cả các Kitô hữu cần một tu đức truyền giáo thật sự gồm có cầu nguyện và chiêm ngưỡng.

Một người có lòng đạo chân chính thì dễ dàng được người ta kính trọng và đi theo tại Á Châu. Cầu nguyện, chay tịnh và những hình thức khổ hạnh khác được coi trọng. Hy sinh, bỏ mình, khiêm tốn, đơn sơ và thinh lặng được xem là những giá trị lớn đối với các tín đồ của mọi tôn giáo. Để sự cầu nguyện không tách rời khỏi sự thăng tiến nhân bản, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhấn mạnh rằng "các công việc của công bình, bác ái và lòng thương xót thì có quan hệ với một đời sống cầu nguyện và chiêm ngưỡng đích thực, và hơn nữa chính cũng một tu đức này là nguồn suối của mọi công trình rao giảng Tin Mừng của chúng ta" (109). Hoàn toàn xác tín về tầm quan trọng của các chứng tá chân chính trong việc rao giảng Tin Mừng tại Á Châu, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng phát biểu: "Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô chỉ có thể được rao giảng bởi những ai bị chiếm đoạt và được linh hứng bởi tình yêu của Chúa Cha đối với con cái mình, tình yêu đó được tỏ bày nơi con người Đức Giêsu Kitô. Việc loan truyền này là một sứ vụ cần đến những con người nam nữ thánh thiện, họ sẽ làm cho Đấng Cứu Thế được biết và được yêu suốt đời của họ. Một ngọn lửa chỉ được cháy lên bằng cái gì đã bén lửa. Cũng vậy, việc loan truyền Tin Mừng Cứu Độ mà có hiệu quả tại Á Châu, chỉ có thể xảy ra, nếu các Giám Mục, các hàng Giáo Sĩ, những kẻ sống đời sống thánh hiến và giáo dân, cháy nóng bằng tình yêu Đức Kitô và ao ước làm cho Người được biết cách rộng rãi hơn, được yêu cách sâu xa hơn, và được theo cách gần gũi hơn" (110). Người Kitô hữu nói về Đức Kitô, thì phải thấm nhuần sứ điệp mà họ rao giảng vào đời sống mình.

Về phương diện này, một hoàn cảnh đặc biệt trong bối cảnh Á Châu đòi hỏi phải lưu ý. Giáo Hội nhận thức rằng chứng tá thầm lặng của đời sống vẫn là con đường duy nhất để loan báo Nước Chúa trong nhiều nơi tại Á Châu, mà việc rao giảng công khai bị ngăn cấm và sự tự do tôn giáo bị chối từ hay bị hạn chế có hệ thống. Giáo Hội sống cách ý thức kiểu làm chứng này, coi đó là một "việc vác thánh giá mình" (Lc 9, 23), đồng thời kêu gọi và thúc bách các chính phủ nhìn nhận tự do tôn giáo như là quyền lợi căn bản con người. Những lời của công đồng Vaticanô II đáng được lập lại ở đây: "Con người có quyền tự do tôn giáo. Quyền tự do này hệ tại con người không bị lệ thuộc vào áp lực của cá nhân, đoàn thể xã hội hay của bất cứ quyền bính trần gian nào khác; không một ai bị ép buộc hành động trái với lương tâm mình trong các việc tôn giáo, cũng không ai bị ngăn cấm hành động theo lương tâm mình, dù cho đó là hành động riêng tư hay công khai, một mình hay cùng với người khác, trong những giới hạn chính đáng" (111). Trong một vài quốc gia tại Á Châu, lời tuyên bố này vẫn cần được nhìn nhận và đem ra thi hành.

Như vậy, rõ ràng là việc loan báo về Đức Giêsu Kitô tại Á Châu mang nhiều khía cạnh phức tạp, vừa trong nội dung vừa trong phương cách. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng rất ý thức đến sự đa dạng chính đáng của những phương thức rao giảng về Đức Giêsu, miễn là chính đức tin được tôn trọng trong sự toàn vẹn của nó qua quá trình chiếm hữu hay chia sẻ đức tin. Thượng Hội Đồng ghi nhận rằng "ngày nay việc Phúc âm hoá là một thực tại, vừa súc tích vừa năng động. Nó gồm có nhiều khía cạnh và yếu tố: chứng tá, đối thoại, rao giảng, dạy giáo lý, hoán cải, bí tích Rửa Tội, gia nhập vào cộng đoàn Giáo Hội, thiết lập Giáo Hội, hội nhập văn hoá và thăng tiến toàn diện con người. Một số yếu tố liên kết với nhau, đang khi một số khác là những bước hay những giai đoạn kế tiếp nhau của toàn thể quá trình Phúc âm hoá" (112). Tuy nhiên, trong mọi công cuộc Phúc âm hoá, phải loan báo trọn vẹn chân lý về Đức Giêsu Kitô. Nhấn mạnh đến một vài khía cạnh của mầu nhiệm khôn dò của Đức Giêsu, vừa là việc chính đáng vừa là cần thiết, để từ từ giới thiệu Đức Giêsu cho một con người, nhưng việc làm đó không được phép làm tổn thương tính toàn vẹn của đức tin. Sau cùng, sự chấp nhận đức tin của một con người phải được đặt nền tảng trên một sự hiểu biết chắc chắn về con người Đức Giêsu, như Giáo Hội trình bày mọi lúc mọi nơi, là Chúa của mọi người, Đấng "vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay và như vậy mãi mãi đến muôn đời".

CHƯƠNG V

HIỆP THÔNG VÀ ĐỐI THOẠI
ĐỂ TRUYỀN GIÁO

Hiệp Thông và Truyền Giáo Đi Đôi Với Nhau

24. Theo kế hoạch đời đời của Chúa Cha, Giáo Hội, được tiên báo từ lúc khởi đầu thế giới, được chuẩn bị trong Cựu Ước, được Đức Giêsu thiết lập và được Chúa Thánh Thần làm cho hiện diện trong thế gian vào ngày lễ Ngũ Tuần, "lữ hành giữa cơn bách hại của thế gian và trong niềm an ủi của Thiên Chúa" (113), đang khi tiến đến sự trọn lành trong vinh quang thiên quốc. Bởi vì Thiên Chúa muốn "toàn thể nhân loại trở nên một Dân của Thiên Chúa, làm thành một Thân Thể của Đức Kitô, và được xây dựng thành một đền thờ của Chúa Thánh Thần" (114), nên Giáo Hội là "kế hoạch hữu hình của tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại, là bí tích cứu rỗi" (115) trong trần gian. Do đó Giáo Hội không thể được hiểu thuần tuý như là một tổ chức xã hội hay là cơ quan trợ cấp cho con người. Mặc dầu gồm những con người nam và nữ tội lỗi, Giáo Hội phải được xem như là một nơi dành riêng cho sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người, nơi Thiên Chúa chọn để mạc khải mầu nhiệm sự sống bên trong của Người và thi hành kế hoạch cứu rỗi cho thế gian.

Mầu nhiệm kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa được làm cho hiện diện và sinh động trong cộng đồng những người nam và người nữ là những kẻ được mai táng trong cái chết với Đức Kitô qua bí tích Rửa Tội, để như Đức Kitô đã chỗi dậy từ kẻ chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha thì họ có thể bước đi trong đời sống mới (x. Rm 6,4). Tại trung tâm của mầu nhiệm Giáo Hội, là sợi dây hiệp thông nối kết Đức Kitô, vị Tân Lang, với tất cả những người được rửa tội. Nhờ sự hiệp thông sống động và ban sự sống này, "các Kitô hữu không thuộc về mình nữa, mà là những người thuộc riêng về Chúa" (116). Được hợp nhất với Chúa Con trong sợi dây tình yêu của Chúa Thánh Thần, các Kitô hữu được hiệp nhất với Chúa Cha, và từ sự hiệp thông này tuôn tràn sự hiệp thông mà các Kitô hữu chia sẻ với nhau nhờ Đức Kitô trong Chúa Thánh Thần" (117). Như vậy mục đích đầu tiên của Giáo Hội là nên bí tích của sự hợp nhất mật thiết của con người với Thiên Chúa, và bởi vì sự hiệp thông giữa con người với nhau được đâm rễ trong sự hiệp nhất với Thiên Chúa, nên Giáo Hội cũng là bí tích hiệp nhất của loài người (118). Nơi Giáo Hội, sự hiệp nhất này đã bắt đầu; và đồng thời Giáo Hội là "dấu chỉ và khí cụ" của sự thực hiện trọn vẹn sự hiệp nhất còn phải đạt đến (119).

Một đòi hỏi thiết yếu của sự sống trong Đức Kitô là bất cứ ai đi vào sự hiệp thông với Chúa, thì cần phải sinh hoa trái: "Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái" (Ga 15,5). Lời nói đó thật đúng đến nỗi người nào không sinh hoa trái thì không ở trong sự hiệp thông: "Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi" (Ga 15,2). Sự hiệp thông với Đức Giêsu, nguồn gốc của sự hiệp thông giữa các Kitô hữu với nhau, là điều kiện cần thiết để sinh hoa trái; và sự hiệp thông với kẻ khác, một ân huệ của Đức Kitô và Thần khí của Người, là hoa trái tốt đẹp nhất mà các cành có thể cho. Theo nghĩa này, sự hiệp thông và việc truyền giáo liên kết với nhau không thể phân ly. Chúng thâm nhập và bao hàm lẫn nhau, đến nỗi "sự hiệp thông diễn tả vừa là nguồn suối vừa là hoa trái của việc truyền giáo: sự hiệp thông phát sinh việc truyền giáo và sự truyền giáo được hoàn tất trong sự hiệp thông" (120).

Sử dụng khoa thần học về sự hiệp thông, Công đồng Vatican II có thể diễn tả Giáo Hội như là dân lữ hành của Thiên Chúa mà tất cả các dân tộc đều có liên hệ theo một cách nào đó (121). Dựa trên căn bản này, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhấn mạnh tới mối liên hệ mầu nhiệm giữa Giáo Hội và những người đi theo các tôn giáo khác tại Á Châu, mà lưu ý rằng họ "liên hệ với Giáo Hội trong những cấp độ và cách thức khác nhau" (122). Giữa bao nhiêu dân tộc, văn hoá và tôn giáo khác nhau, "đời sống của Giáo Hội như sự hiệp thông có tầm quan trọng lớn nhất" (123). Quả thực, việc phục vụ hiệp thông của Giáo Hội là việc làm đặc biệt thích đáng tại Á Châu, nơi có nhiều căng thẳng, chia rẽ và xung đột, do những khác biệt chủng tộc, xã hội, văn hoá, ngôn ngữ, kinh tế và tôn giáo. Chính trong bối cảnh này mà các Giáo Hội địa phương tại Á Châu, cùng hiệp thông với Đấng kế vị thánh Phêrô, cần cổ võ một sự hiệp thông lòng trí sâu xa hơn, bằng cách cộng tác chặt chẽ với nhau. Mối liên hệ với những Giáo Hội và các cộng đồng Giáo Hội Kitô khác, và với những người theo các tôn giáo khác cũng rất quan trọng với việc rao giảng Tin Mừng (124). Do đó, Thượng Hội Đồng tái xác định sự dấn thân của Giáo Hội tại Á Châu trong công việc cải thiện cả những liên hệ đại kết lẫn sự đối thoại liên tôn, bằng cách nhìn nhận rằng xây dựng sự hiệp nhất, thực hiện sự hoà giải, tạo ra những sợi dây liên đới, cổ võ đối thoại giữa các tôn giáo và các nền văn hoá, loại bỏ những thành kiến và đem lại sự tin tưởng giữa các dân tộc, tất cả những điều đó là thiết yếu cho sứ mạng Phúc âm hoá của Giáo Hội trên lục địa này. Tất cả những điều đó đòi hỏi cộng đồng công giáo phải thành thật xét lại lương tâm, can đảm tìm kiếm sự hoà giải và một sự dấn thân mới mẻ cho việc đối thoại. Tại ngưỡng cửa ngàn năm thứ ba, thật rõ ràng rằng khả năng Phúc âm hoá của Giáo Hội đòi buộc Giáo Hội phải ra sức phục vụ sự hiệp nhất trong tất cả mọi chiều kích. Sự hiệp thông và truyền giáo đi đôi với nhau.

Hiệp Thông Trong Lòng Giáo Hội

25. Tập họp xung quanh Đấng kế vị Thánh Phêrô, cầu nguyện và làm việc với nhau, các Giám Mục dự Hội Nghị Đặc Biệt về Á Châu, cách nào đó đã nhân cách hoá sự hiệp thông của Giáo Hội, trong tất cả sự khác biệt phong phú của các Giáo Hội địa phương mà các ngài lãnh đạo với tình bác ái. Sự hiện diện của chính tôi trong các Khoá Họp Khoáng Đại Thượng Hội Đồng, là một cơ hội tốt để chia sẻ niềm vui và hy vọng, những khó khăn và âu lo của các Giám Mục, và đồng thời là việc thi hành đầy nhiệt huyết và rất sâu sắc về chính thừa tác vụ của tôi. Trên thực tế, chính trong viễn tượng hiệp thông Giáo Hội mà quyền bính phổ quát của Đấng kế vị thánh Phêrô toả sáng rõ ràng hơn, không phải chủ yếu như là một quyền tài phán trên các Giáo Hội địa phương, nhưng trước hết như là một quyền ưu tiên mục vụ, để phục vụ sự hiệp nhất đức tin và sự sống của toàn thể Dân Chúa. Ý thức đầy đủ rằng "chức vụ Phêrô có nhiệm vụ duy nhất là bảo đảm và cổ võ sự hiệp nhất của Giáo Hội" (125) nên các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng công nhận sự phục vụ mà các cơ quan của Giáo triều Roma và Bộ Ngoại Giao của Toà Thánh mang lại cho các Giáo Hội tại địa phương, trong tinh thần hiệp thông và đồng đoàn (126). Một nét chính yếu của sự phục vụ này là sự kính trọng và nhạy cảm mà các cộng tác viên gần của Đấng kế vị thánh Phêrô bày tỏ trước sự khác biệt chính đáng của Giáo Hội địa phương và sự đa dạng của các nền văn hoá và dân tộc mà các vị đó tiếp xúc.

Mỗi một Giáo Hội
riêng phải được đặt nền móng trên chứng tá của sự hiệp thông Giáo hội, vì sự hiệp thông cấu tạo nên chính bản tính của Giáo Hội. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng muốn diễn tả Giáo phận như là một sự hiệp thông các cộng đoàn bao quanh vị Chủ Chăn, nơi đây hàng giáo sĩ, những người sống đời thánh hiến và giáo dân dấn thân vào một "đối thoại đời sống và con tim" được nâng đỡ nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần (127). Chính trong Giáo phận mà cái nhìn về sự hiệp thông các cộng đoàn được thực hiện giữa những thực tại xã hội, chính trị, tôn giáo, văn hoá, và kinh tế phức tạp tại Á Châu. Sự hiệp thông Giáo Hội bao hàm rằng mỗi Giáo Hội địa phương phải trở nên điều mà các Nghị phụ Thượng Hội Đồng gọi là "một Giáo Hội tham gia" (participatory Church), có nghĩa là một Giáo Hội trong đó mọi người đều sống ơn gọi của riêng mình và chu toàn vai trò của mình. Để xây dựng "sự hiệp thông để truyền giáo" và "sự truyền giáo của sự hiệp thông", thì ơn đoàn sủng độc nhất của mỗi thành viên phải được nhìn nhận, phát triển và sử dụng cho hữu ích (128). Cách riêng, cần phải để cho người giáo dân và các người nam nữ sống đời thánh hiến, dấn thân nhiều trong việc đặt kế hoạch mục vụ và đưa ra quyết định, nhờ các cơ cấu tham gia như Hội Đồng Mục Vụ và các Hội Đoàn Giáo Xứ (129).

Trong mỗi Giáo Phận, Giáo xứ vẫn là nơi bình thường để người tín hữu tập hợp và lớn lên trong đức tin, sống mầu nhiệm hiệp thông Giáo Hội và dự phần trong sứ mạng của Giáo Hội. Cho nên, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng thúc giục các Chủ Chăn tìm ra những phương thế mới và hữu hiệu để chăn dắt người tín hữu, làm thế nào để mỗi người, cách riêng người nghèo, sẽ cảm thấy mình thật sự là một thành phần của Giáo xứ và của toàn thể dân Chúa. Sự tham gia của người giáo dân trong việc lên kế hoạch mục vụ phải là một nét bình thường của tất cả các Giáo xứ (130). Thượng Hội Đồng chọn riêng giới trẻ làm những người mà "Giáo xứ phải dành cho nhiều cơ hội hơn, để họ sống tình bạn và hiệp thông. như tổ chức hiệp hội tông đồ và câu lạc bộ giới trẻ" (131). Không một người nào bị loại trừ cách tiên thiên, khỏi sự chia sẻ đầy đủ vào đời sống và sứ mạng của Giáo xứ, chỉ vì quá trình xã hội, kinh tế, chính trị, văn hoá hay giáo dục của họ. Vì mỗi người theo Đức Kitô đều có một quà tặng để trao ban cho cộng đoàn, nên cộng đoàn phải có thiện chí đón nhận và hưởng nhờ tặng vật của mỗi người.

Trong bối cảnh này, và theo kinh nghiệm mục vụ của mình, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhấn mạnh giá trị của những cộng đoàn Giáo Hội cơ bản như là một phương thức hiệu nghiệm để cổ võ sự hiệp thông và tham gia trong các Giáo xứ và Giáo phận, và như là một lực lượng đích thực cho việc rao giảng Tin Mừng (132). Những nhóm nhỏ này giúp người tín hữu sống thành những cộng đoàn tin, cầu nguyện và yêu thương như các Kitô hữu thời đầu (x. Cv 2,44-47; 4,32-35). Các cộng đoàn này có mục đích là giúp đỡ các thành viên của mình sống Tin Mừng trong một tinh thần yêu thương huynh đệ và phục vụ, và do đó chúng là khởi điểm vững chắc để xây dựng một xã hội mới, một diễn tả của nền văn minh tình thương. Cùng với Thượng Hội Đồng, tôi khuyến khích Giáo Hội tại Á Châu, nơi nào có thể, thì xem những cộng đoàn cơ bản này như là một nét tích cực của hoạt động truyền giáo của Giáo Hội. Đồng thời, các cộng đoàn này chỉ có thể mang lại hiệu quả đích thực nếu -như Đức ĐGH Phaolô VI viết- chúng hiệp nhất với Giáo Hội địa phương và Giáo Hội hoàn vũ, trong sự hiệp thông chân tình với các vị Chủ Chăn của Giáo Hội và với Huấn Quyền, biết dấn thân mở rộng việc truyền giáo và không theo chủ nghĩa biệt lập hay sự khai thác ý thức hệ (133). Sự hiện diện của những cộng đoàn nhỏ này không làm cho vô hiệu những thể chế và cơ cấu đã được thiết lập, vẫn còn cần thiết để Giáo Hội hoàn thành sứ vụ của mình.

Thượng Hội Đồng cũng nhìn nhận vai trò của những phong trào canh tân, để xây dựng sự hiệp thông, để tạo điều kiện thuận lợi giúp có kinh nghiệm thân mật hơn với Thiên Chúa qua đức tin và các Bí Tích, và để cổ võ việc hoán cải đời sống (134). Trách nhiệm của các Chủ Chăn là hướng dẫn, đồng hành và khích lệ những nhóm đó để họ có thể hội nhập vào đời sống và sứ mạng của Giáo xứ và Giáo phận. Những ai dấn thân vào trong các hiệp hội và phong trào, phải trợ giúp Giáo Hội tại địa phương và đừng có coi mình như là những gì thay thế cho những cơ cấu Giáo phận và đời sống Giáo xứ. Sự hiệp thông lớn mạnh hơn khi các lãnh đạo địa phương của các phong trào này làm việc chung với các vị Chủ Chăn trong tinh thần bác ái vì lợi ích chung (x. 1 Cr 1,13).

Tình Liên Đới Giữa Các Giáo Hội

26. Sự hiệp thông nội bộ góp phần tạo ra tình liên đới giữa các Giáo Hội địa phương. Việc chú ý tới các nhu cầu địa phương là điều chính đáng và cần thiết, nhưng sự hiệp thông đòi hỏi các Giáo Hội địa phương cởi mở đón tiếp lẫn nhau và cộng tác với nhau, để trong sự khác biệt, họ có thể gìn giữ và tỏ bày rõ ràng mối giây hiệp thông với Giáo Hội hoàn vũ. Sự hiệp thông đòi hỏi phải hiểu biết lẫn nhau và một đường lối truyền giáo có phối hợp, mà không làm tổn hại sự độc lập và các quyền của các Giáo Hội, theo truyền thống thần học, phụng vụ và thiêng liêng của riêng từng Giáo Hội. Tuy nhiên lịch sử cho thấy rằng các mối chia rẽ thường đã làm tổn thương sự hiệp thông của các Giáo Hội tại Á Châu. Suốt bao thế kỷ, các mối liên hệ giữa các Giáo Hội địa phương thuộc các quyền tài phán khác nhau, các truyền thống phụng vụ và các phương cách truyền giáo, nhiều khi căng thẳng và khó khăn. Các Giám Mục hiện diện tại Thượng Hội Đồng nhìn nhận rằng, ngay cả ngày hôm nay, trong nội bộ và giữa các Giáo Hội địa phương tại Á Châu, thỉnh thoảng xảy ra những chia rẽ đáng tiếc, thường liên can đến những khác biệt về nghi lễ, ngôn ngữ, chủng tộc, đẳng cấp và ý thức hệ. Một số vết thương đã được chữa lành phần nào, nhưng chưa lành hẳn. Nhìn nhận rằng nơi nào sự hiệp thông bị suy yếu, thì chứng tá của Giáo Hội và công việc truyền giáo bị thiệt hại, nên các Nghị Phụ đề nghị những bước cụ thể để gia tăng mối liên hệ giữa các Giáo Hội địa phương tại Á Châu. Ngoài những diễn tả cần thiết về mặt thiêng liêng như cổ vũ và khuyến khích, các ngài gợi ý có sự phân bổ đều hơn các linh mục, sự liên đới tài chánh hữu hiệu hơn, những trao đổi văn hoá và thần học, và tăng thêm những dịp thông hiệp giữa các Giáo phận (135).

Những hiệp hội Giám mục cấp vùng hay cấp lục địa, đáng chú ý là Hội Đồng các Thượng Phụ Giáo Chủ Trung Đông và Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu, đã góp phần cổ võ sự hiệp nhất giữa các Giáo Hội địa phương và đã là nơi gặp gỡ để cộng tác giải quyết những vấn đề mục vụ. Cũng vậy, có nhiều trung tâm thần học, tu đức và hoạt động mục vụ tại Á Châu đã cổ võ sự hiệp thông và hợp tác cụ thể (136). Tất cả phải quan tâm lo cho các sáng kiến đầy hứa hẹn đó được phát triển hơn nữa vì lợi ích vừa của Giáo Hội vừa của xã hội tại Á Châu.

Những Giáo Hội Công Giáo Đông Phương

27. Hoàn cảnh các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương, nhất là ở Trung Đông và Ấn độ đáng lưu ý cách riêng. Từ thời các Tông Đồ, các Giáo Hội đó đã nắm giữ một gia sản thiêng liêng, phụng vụ và thần học quí báu. Những truyền thống và nghi lễ của các Giáo Hội ấy, phát sinh từ việc hội nhập văn hoá sâu xa của đức tin trong phần đất của nhiều quốc gia Á Châu, đáng được sự kính trọng nhất. Cùng với các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng, tôi kêu gọi mọi người nhìn nhận những tập quán chính đáng và sự tự do chính đáng của các Giáo Hội này trong các vấn đề kỷ luật và phụng vụ, như được qui định trong bộ giáo luật của các Giáo Hội Đông Phương (137). Theo giáo huấn của Công Đồng Vatican II, có một nhu cầu cấp bách vượt thắng những sợ hãi và hiểu lầm thỉnh thoảng xuất hiện giữa các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương và Giáo Hội La tinh, và giữa các Giáo Hội này với nhau, đặc biệt trong việc chăm sóc mục vụ cho các tín hữu của mình, cả bên ngoài địa hạt của mình (138). Là con cái của một Giáo Hội duy nhất, được tái sinh vào sự sống mới trong Đức Kitô, các tín hữu được mời gọi gánh vác mọi sự trong sự quan tâm đến mục đích chung, trong một tinh thần tin tưởng và bác ái không lay chuyển. Không nên để những xung đột tạo nên chia rẽ, nhưng ngược lại phải giải quyết trong tinh thần chân lý và kính trọng, bởi vì không có sự thiện hảo nào đến mà không do tình yêu (139).

Những Giáo Hội đáng kính này đã trực tiếp dấn thân vào cuộc đối thoại đại kết với các Giáo Hội Chính Thống đàn chị, và các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng thúc giục họ tiếp tục con đường đó (140). Các Giáo Hội ấy cũng đã có kinh nghiệm đáng giá trong việc đối thoại liên tôn, nhất là với Hồi giáo. Điều đó có thể hữu ích cho các Giáo Hội khác tại Á Châu và bất cứ nơi nào khác. Rõ ràng là các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương có một sự phong phú lớn lao về truyền thống và kinh nghiệm có thể đem lại nhiều lợi ích cho toàn thể Giáo Hội.

Chia Sẻ Những Hy Vọng Và Đau Khổ

28. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cũng ý thức về sự cần thiết giữ một sự hiệp thông và hợp tác hữu hiệu với các Giáo Hội địa phương tại các phần đất Sô-viết cũ ở Á Châu, những Giáo Hội đang tái thiết trong những hoàn cảnh đầy thử thách do thời kỳ khó khăn lịch sử để lại. Giáo Hội đồng hành với họ trong lời cầu nguyện, chia sẻ những đau khổ và hy vọng mới tìm lại được của họ. Tôi khuyến khích toàn thể Giáo Hội nâng đỡ họ về mặt tinh thần, thiêng liêng và vật chất, và cung ứng cho họ các thừa tác viên giáo sĩ hay giáo dân mà họ rất cần, để giúp đỡ những cộng đồng này trong công tác chia sẻ với các dân tộc những vùng đất này tình yêu của Thiên Chúa được mạc khải trong Đức Kitô (141).

Trong nhiều phần đất Á Châu, anh chị em chúng ta tiếp tục sống đức tin giữa những hạn chế hay là có khi mất hoàn toàn tự do. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng bày tỏ sự quan tâm và lo lắng cách riêng đối với những thành viên đang đau khổ này. Cùng với các Giám Mục Á Châu, tôi tha thiết xin anh chị em của các Giáo Hội đang gặp khó khăn này, biết kết hợp các đau khổ của mình với các đau khổ của Chúa chịu đóng đinh, bởi vì chúng ta và họ đều biết duy chỉ có thánh giá, khi bằng lòng vác trong đức tin và tình yêu, mới là con đường phục sinh và ban sự sống mới cho nhân loại. Tôi khuyến khích các Hội đồng Giám Mục quốc gia tại Á Châu thiết lập một văn phòng để giúp đỡ các Giáo Hội này, và tôi cam kết Toà Thánh tiếp tục gần gũi và lo lắng cho tất cả những ai đang bị bắt bớ vì niềm tin vào Đức Kitô (142). Tôi kêu gọi các chính phủ và các vị lãnh đạo quốc gia chấp nhận và thực hiện những chính sách bảo đảm tự do tôn giáo cho tất cả các công dân của mình.

Trong nhiều dịp, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã nghĩ tới Giáo Hội Công giáo tại lục địa Trung Hoa, và cầu nguyện cho sớm tới ngày anh chị em Trung Hoa thân mến của chúng ta được hoàn toàn tự do thực hành đức tin của mình trong sự hiệp thông hoàn toàn với Toà Thánh Phêrô và Giáo Hội hoàn vũ. Hỡi những anh chị em Trung Hoa thân mến, tôi tha thiết gởi lời nhắn nhủ này với anh chị em: đừng bao giờ để những gian khổ và buồn phiền làm giảm sút lòng sốt mến của anh chị em đối với Đức Kitô và sự dấn thân của anh chị em đối với quê hương vĩ đại của anh chị em (143). Thượng Hội Đồng cũng bày tỏ sự liên đới chân tình với Giáo Hội công giáo tại Triều Tiên, và ủng hộ "những nỗ lực của người công giáo nhằm trợ giúp dân chúng Bắc Triều Tiên đang thiếu thốn những phương tiện tối thiểu để sống còn, và mang lại hoà giải giữa hai quốc gia có cùng một chủng tộc, một ngôn ngữ và một gia sản văn hoá" (144).

Cũng vậy, Thượng Hội Đồng thường nghĩ tới Giáo Hội tại Giêrusalem, một Giáo Hội có chỗ đứng đặc biệt trong con tim của mọi Kitô hữu. Quả vậy, những lời nói của ngôn sứ Isaia vang dội trong con tim hàng triệu người tín hữu khắp thế giới, đối với họ Giêrusalem chiếm một chỗ đứng duy nhất và thân ái: "Hãy vui mừng với Giêrusalem, hãy vì thành Giêrusalem mà hoan hỉ, hỡi tất cả những người yêu mến thành đô!. để được thoả thích nếm mùi sung mãn vinh quang, như trẻ thơ bú no bầu sữa mẹ" (66,10-11). Giêrusalem, đô thị của sự hoà giải con người với Thiên Chúa và với nhau, đã nhiều phen là một nơi xung đột và chia rẽ. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng kêu gọi các Giáo Hội địa phương biểu lộ một sự liên đới với Giáo Hội tại Giêrusalem, bằng cách chia sẻ những đau buồn, cầu nguyện và hợp tác với Giáo Hội này nhằm phục vụ hoà bình, công bình và hoà giải giữa hai dân tộc và ba tôn giáo hiện diện trong Thành Thánh này (145). Tôi lập lại lời kêu gọi mà tôi thường gởi đến các vị lãnh đạo chính trị và tôn giáo và mọi người thiện chí, nhằm tìm kiếm những phương thức bảo đảm hoà bình và sự toàn vẹn cho Giêrusalem. Như tôi đã viết, tôi tha thiết ước mong làm một chuyến hành hương tôn giáo tới đó, như vị Tiền Nhiệm của tôi là Đức Phaolô VI, để cầu nguyện trong thành thánh nơi Đức Giêsu Kitô đã sống, đã chết và đã chổi dậy và viếng nơi mà, trong quyền lực Chúa Thánh Thần, các tông đồ đã ra đi rao giảng Tin Mừng Đức Giêsu Kitô cho thế giới (146).

Một Sứ Mạng Đối Thoại

29. Chủ đề chung của các Thượng Hội Đồng "lục địa" khác nhau nhằm chuẩn bị Đại Năm Thánh năm 2000, đó là Tân Phúc Âm hoaù. Một thời kỳ mới của việc loan báo Tin Mừng là cần thiết, không những vì, sau hai ngàn năm, một phần lớn gia đình nhân loại còn chưa biết Đức Kitô, nhưng cũng vì hoàn cảnh mà Giáo Hội và thế giới đang sống ở ngưỡng cửa ngàn năm thứ ba, gợi lên những thách đố đặc biệt đối với niềm tin tôn giáo và những chân lý luân lý phát sinh từ đó. Gần như nơi nào cũng có khuynh hướng xây dựng sự tiến bộ và sự thịnh vượng mà không hề qui chiếu về Thiên Chúa, và khuynh hướng thu gọn chiều kích tôn giáo của con người vào lãnh vực riêng tư. Xã hội nào tách biệt khỏi chân lý nền tảng nhất về con người, nghĩa là mối tương quan với Đấng Tạo hoá và sự cứu chuộc do Đức Kitô thực hiện trong Chúa Thánh Thần thì chỉ có thể càng ngày càng lạc xa nguồn mạch đích thật của sự sống, tình yêu và hạnh phúc. Thế kỷ đầy tàn bạo này, đang đến hồi kết thúc, đưa ra một chứng tá khủng khiếp về cái gì có thể xảy ra khi chân lý và sự thiện bị bỏ qua, để chạy theo sự tham lam quyền lực và mở rộng quyền hành cho mình. Việc tân Phúc Âm hoá, như là một lời mời gọi hoán cải, hướng về ân sủng và khôn ngoan, là niềm hy vọng đích thực và duy nhất về một thế giới tốt đẹp hơn và một tương lai sáng sủa hơn. Vấn đề không phải là Giáo Hội có điều gì căn bản để nói với những con người nam nữ của thời đại chúng ta, nhưng Giáo Hội có thể nói điều đó cách nào cho rõ ràng và xác tín!

Thời gian họp Công đồng Vatican II, vị tiền nhiệm của tôi là Đức Phaolô VI, trong thông điệp Ecclesiam suam, đã tuyên bố rằng vấn đề mối tương quan giữa Giáo Hội và thế giới Tân thời, là một trong những vấn đề quan trọng nhất của thời đại chúng ta. Ngài viết rằng "sự hiện hữu của nó và sự cấp bách của nó, như thể tạo nên một gánh nặng trên tâm hồn chúng ta, tạo ra một kích thích, một ơn gọi" (147). Kể từ Công Đồng, Giáo Hội luôn tỏ ra rằng mình muốn theo đuổi mối tương quan đó trong tinh thần đối thoại. Tuy nhiên ước muốn đối thoại không phải đơn thuần là một chiến lược để chung sống hoà bình giữa các dân tộc, nó còn là một phần chủ yếu của sứ mạng Giáo Hội, bởi vì nó bắt nguồn từ sự đối thoại cứu rỗi đầy yêu thương của Chúa Cha với nhân loại qua Chúa Con trong quyền năng Chúa Thánh Thần. Giáo Hội chỉ có thể hoàn thành sứ mạng mình theo một cách thức phù hợp với cách thức mà Thiên Chúa đã hành động trong Đức Giêsu Kitô: trở nên người phàm, chia sẻ đời sống nhân loại chúng ta và nói bằng ngôn ngữ con người để truyền thông sứ điệp cứu rỗi của Người. Sự đối thoại mà Giáo Hội đề nghị, đặt nền tảng trên cái lô-gích của mầu nhiệm Nhập Thể. Do đó, không gì ngoài tình liên đới nhiệt thành và vô vị lợi thúc giục Giáo Hội đối thoại với những người nam nữ Á Châu, là những người đang tìm kiếm chân lý trong tình yêu.

Là bí tích hiệp nhất toàn thể nhân loại, Giáo Hội không thể không đi vào cuộc đối thoại với các dân tộc, trong mọi lúc và mọi nơi. Đáp trả với sứ mạng đã lãnh nhận, Giáo Hội dám đi gặp các dân tộc trên thế giới, ý thức rằng mình là "một đoàn chiên bé nhỏ" giữa đám đông bao la nhân loại (x. Lc 12,32), nhưng cũng là men trong đấu bột của thế giới (x. Mt 13,33). Trước hết, Giáo Hội cố gắng dấn thân đối thoại với những kẻ chia sẻ niềm tin với mình vào Đức Giêsu Kitô, là Chúa và Đấng Cứu độ. Sự đối thoại trải rộng ra ngoài thế giới Kitô giáo, tới những kẻ theo mọi truyền thống tôn giáo khác, dựa trên nền tảng là khát vọng tôn giáo có trong tâm hồn mọi người. Đối thoại đại kết và đối thoại liên tôn tạo thành một ơn gọi đích thật của Giáo Hội.

Đối Thoại Đại Kết

30. Đối thoại đại kết là một thách đố và là một lời mời gọi hoán cải đối với toàn thể Giáo Hội, cách riêng đối với Giáo Hội tại Á Châu, nơi mà dân chúng trông chờ nơi người Kitô hữu một dấu chỉ rõ nét hơn về sự hợp nhất. Để cho mọi dân tộc qui tụ lại dưới tác động của ân sủng Chúa, thì cần phải khôi phục sự hiệp thông giữa những kẻ, trong đức tin, đã nhìn nhận Đức Giêsu Kitô là Chúa. Chính Đức Giêsu đã cầu nguyện và không ngừng kêu gọi các môn đệ hợp nhất với nhau, để thế gian có thể tin rằng Chúa Cha đã sai Người (x. Ga 17,21) (148). Nhưng ý của Chúa muốn cho Giáo Hội nên một, còn trông chờ sự đáp trả hoàn toàn và can đảm từ phía các môn đệ của Người.

Tại Á Châu, do số Kitô hữu tương đối ít, nên sự chia rẽ càng làm cho công việc truyền giáo trở nên khó khăn hơn. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhìn nhận rằng "gương xấu của một Kitô giáo chia rẽ, là một ngăn trở lớn cho việc rao giảng Tin Mừng tại Á Châu" (149). Quả thực, nhiều người tại Á Châu đang đi tìm sự hoà hợp và hiệp nhất qua các tôn giáo và văn hoá của họ, coi sự chia rẽ giữa các Kitô hữu như là một phản chứng với Đức Giêsu Kitô. Do đó Giáo Hội Công Giáo tại Á Châu đặc biệt cảm thấy bị thúc đẩy hợp nhất với các Kitô hữu khác, và nhận thức rằng tìm kiếm sự hoà hợp đầy đủ đòi hỏi mỗi người phải có lòng bác ái, sự biện phân, lòng can đảm và niềm hy vọng. "Muốn trở nên xác thực và mang lại kết quả, phong trào đại kết đòi hỏi một số trạng thái tinh thần cơ bản về phía người tín hữu Công Giáo: trước hết là đức ái, với một cái nhìn đầy thiện cảm và ước muốn hăng say hợp tác, nơi nào có thể được, với tín hữu của các Giáo Hội và của các cộng đoàn Giáo Hội khác; hai là, lòng trung thành với Giáo Hội Công Giáo, không vì thế mà phớt lờ hoặc phủ nhận những khuyết điểm nơi một số thành phần của Giáo Hội; ba là, một tinh thần biết biện phân để thấy giá trị của tất cả những gì là tốt và đáng ngợi khen. Sau cùng, một ước muốn thanh tẩy và đổi mới chân thành cũng là điều cần thiết" (150).

Đang khi công nhận những khó khăn còn tồn tại trong các liên hệ giữa người Kitô hữu, những khó khăn đó bao gồm không những các thành kiến trong quá khứ, mà còn những phê phán ăn rễ sâu trong các niềm xác tín đụng chạm tới lương tâm, (151) các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cũng chỉ rõ những dấu chỉ về các liên hệ được cải thiện giữa một số Giáo Hội Kitô giáo và những cộng đồng Giáo Hội tại Á Châu. Những Kitô hữu Công giáo và Chính thống giáo, chẳng hạn, thường nhìn nhận một sự thống nhất văn hoá với nhau, một cảm thức chia sẻ các yếu tố quan trọng của một truyền thống Giáo Hội chung. Điều đó làm thành một nền tảng vững chắc để tiếp tục cuộc đối thoại đại kết có hiệu quả trong ngàn năm sắp tới. Chúng ta phải hy vọng và cầu nguyện cho ngàn năm sắp tới này chấm dứt mọi chia rẽ của ngàn năm sắp kết thúc.

Trên bình diện thực hành, Thượng Hội Đồng đề nghị các Hội Đồng Giám Mục quốc gia tại Á Châu, mời những Giáo Hội Kitô giáo khác liên kết trong một tiến trình cầu nguyện và trao đổi, để nghiên cứu khả năng hình thành các cơ cấu và hiệp hội đại kết nhằm cổ võ sự hiệp nhất Kitô giáo. Gợi ý của Thượng Hội Đồng muốn cho Tuần lễ Cầu Nguyện cho sự Hiệp Nhất Kitô giáo được cử hành cách có kết quả hơn, cũng là một trợ giúp. Các Giám Mục được khích lệ thiết lập và trông nom các trung tâm đại kết để cầu nguyện và đối thoại; và sự đào tạo thích đáng cho việc đối thoại đại kết cần phải được đem vào chương trình giảng dạy tại các chủng viện, các nhà huấn luyện và những cơ sở giáo dục.

Đối Thoại Liên Tôn

31. Trong Tông Thư Tertio Millenio Adveniente, tôi đã trình bày rằng biến cố ngàn năm mới là một dịp lớn để đối thoại liên tôn và để gặp gỡ các nhà lãnh đạo những tôn giáo lớn thế giới (152). Tiếp xúc, đối thoại và hợp tác với những người theo các tôn giáo khác, là một trách nhiệm mà Công Đồng Vatican II trối lại cho toàn thể Giáo Hội như là một bổn phận và một thách đố. Những nguyên tắc để tìm kiếm một tương giao tích cực với các truyền thống tôn giáo khác, đã được trình bày trong Tuyên Ngôn Nostra Aetate của Công Đồng, ban hành ngày 28 tháng 10 năm 1965, đó là bản Đại Hiến Chương về đối thoại liên tôn của thời đại chúng ta. Đứng từ quan điểm Kitô giáo, đối thoại kiên tôn còn hơn là một cách thức cổ võ sự hiểu biết và làm giàu cho nhau; đó là thành phần của sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội, một diễn tả của sứ vụ đến với dân ngoại (Ad Gentes) (153). Người Kitô hữu mang đến cho cuộc đối thoại liên tôn niềm xác tín vững chắc rằng ơn cứu độ trọn vẹn chỉ đến từ Đức Kitô và cộng đoàn Giáo Hội mà họ thuộc về, là một phương tiện bình thường của sự cứu rỗi (154). Ở đây tôi lập lại điều tôi đã viết cho khoá họp khoáng đại lần thứ 5 của Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu: "Mặc dầu Giáo Hội vui mừng công nhận bất cứ cái gì là chân thật và thánh thiêng trong các truyền thống đạo Phật, đạo Hindu và đạo Hồi, như là một phản ảnh của chân lý soi sáng muôn dân, điều đó không làm giảm thiểu bổn phận và quyết tâm của Giáo Hội, đó là rao giảng không do dự về Đức Giêsu Kitô, Đấng là "đường, là sự thật và là sự sống". Sự kiện những kẻ theo các tôn giáo khác có thể nhận lãnh ân sủng của Thiên Chúa và được Đức Kitô cứu độ không bằng những phương tiện bình thường Người đã thiết lập, không vì thế mà hủy bỏ mời gọi lãnh nhận đức tin và phép Thánh tẩy mà Thiên Chúa muốn cho mọi người" (155).

Trong quá trình đối thoại, như tôi đã viết trong Thông Điệp Redemptoris Missio, "không thể loại bỏ các nguyên tắc, cũng không nên chủ trương hoà giải giả tạo (irenicism), nhưng ngược lại, phải làm chứng lẫn cho nhau để cùng nhau tiến bước trên con đường tìm kiếm và sống kinh nghiệm tôn giáo, và đồng thời loại bỏ được những tiên kiến, bất bao dung và hiểu lầm" (156). Chỉ những người có đức tin Kitô giáo trưởng thành và xác tín, mới có tư cách dấn thân vào việc đối thoại liên tôn chân chính. "Chỉ những Kitô hữu được dìm sâu vào trong mầu nhiệm Đức Kitô và sống hạnh phúc trong cộng đồng đức tin của họ, mới có thể dấn thân vào việc đối thoại liên tôn, mà tránh được sự liều lĩnh không đáng và có hy vọng hái được hoa quả tích cực" (157). Do đó, điều quan trọng tại Á Châu là cung cấp những kiểu mẫu xứng hợp cho cuộc đối thoại liên tôn -Phúc âm hoá trong đối thoại và đối thoại để Phúc âm hoá- và sự đào tạo xứng hợp cho những ai dấn thân vào đó.

Khi đã nhấn mạnh về sự cần thiết của sự đối thoại liên tôn để tiến tới một đức tin vững mạnh trong Đức Kitô, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nói tiếp về sự cần thiết phải đối thoại bằng cuộc sống và con tim (dialogue of life and heart). Môn đệ Đức Kitô phải có tấm lòng hiền lành và khiêm nhượng của Thầy mình, không bao giờ tỏ ra kiêu căng, không bao giờ có thái độ hạ cố, khi gặp những đối tác trong cuộc đối thoại (x. Mt 11,29). "Những liên hệ liên tôn được phát huy tốt nhất trong khung cảnh cởi mở với những tín hữu khác, một thái độ saün sàng lắng nghe, ước muốn kính trọng và hiểu biết kẻ khác trong sự khác biệt của họ. Để đạt được tất cả điều đó, cần phải thương yêu kẻ khác. Điều đó phải dẫn đến sự hợp tác, hoà hợp và làm giàu cho nhau" (158).

Để hướng dẫn những người dấn thân trong tiến trình này, Thượng Hội Đồng gợi ý soạn thảo một cuốn kim chỉ nam về đối thoại liên tôn (159). Đang khi Giáo Hội thăm dò những thể thức mới để gặp gỡ các tôn giáo khác, tôi nhắc lại một số hình thức đối thoại đã thực hiện được và có kết quả tốt, gồm có những trao đổi nghiên cứu giữa các chuyên viên trong nhiều truyền thống tôn giáo khác nhau hay những đại diện của các truyền thống này, hành động chung nhằm phát triển toàn diện con người và bênh vực các giá trị nhân bản và tôn giáo (160). Tôi nhắc lại là thật quan trọng biết bao việc làm sinh động lại sự cầu nguyện và chiêm ngưỡng trong quá trình đối thoại. Các người nam và nữ trong đời sống thánh hiến, có thể góp phần rất có ý nghĩa trong việc đối thoại liên tôn, bằng cách làm chứng cho sức mạnh của các truyền thống lớn Kitô giáo, là chủ thuyết khổ chế và thần bí (161).

Cuộc gặp gỡ đáng ghi nhớ tại Assisi, thành phố của thánh Phanxicô, ngày 27 tháng 10 năm 1986, giữa Giáo Hội Công giáo và đại biểu các tôn giáo khác trên thế giới, chứng tỏ rằng các người nam nữ có tôn giáo, tuy không bỏ các truyền thống riêng của mình, vẫn còn có thể dấn thân vào việc cầu nguyện và kiến tạo hoà bình thịnh vượng cho nhân loại (162). Giáo Hội phải tiếp tục cố gắng gìn giữ và cổ võ, ở mọi cấp bậc, tinh thần gặp gỡ và hợp tác giữa các tôn giáo đó.

Sự hiệp thông và đối thoại là hai khía cạnh thiết yếu của sứ mạng Giáo Hội. Sứ mạng đó có một tấm gương vô cùng nổi bật trong mầu nhiệm Ba Ngôi, từ đó phát xuất mọi sứ mạng và từ đó mọi sứ mạng phải hướng tới. Một trong những món quà "sinh nhật" quý báu mà các thành viên của Giáo Hội, và nhất là các vị Chủ chăn của Giáo Hội, có thể dâng lên Đức Chúa của lịch sử nhân dịp kỷ niệm hai ngàn năm của mầu nhiệm Nhập Thể, là tăng cường tinh thần hiệp nhất và hiệp thông ở mọi cấp bậc đời sống Giáo Hội, là sự "hãnh diện thánh thiện" được đổi mới qua sự liên lỉ trung thành của Giáo Hội đối với những sự gì đã được ban cho, và là một sự tin tưởng mới mẻ vào ân sủng và sứ mạng bất biến đã sai Giáo Hội đi giữa các dân tộc trên thế giới để làm chứng cho tình yêu cứu chuộc và lòng thương xót của Thiên Chúa. Chỉ khi nào Dân Chúa nhìn nhận ân huệ là của mình trong Đức Kitô, thì họ mới có khả năng thông truyền ân huệ đó sang cho kẻ khác nhờ sự rao giảng và đối thoại.


Sứ điệp của Đức Phanxicô cho ngày Thế Giới Truyền Thông Xã Hội 2022: Lắng nghe là một chiều kích của tình yêu (27/5/2022)

Sứ điệp của ĐTC Phanxicô cho Ngày Thế giới Cầu Nguyện cho Ơn gọi 2022 (6/5/2022)

Sứ điệp Phục Sinh và phép lành Urbi et Orbi 2022 (20/4/2022)

Tông thư dưới dạng tự sắc ADMIRABILE SIGNUM của Đức Thánh Cha Phanxicô về ý nghĩa và tầm quan trọng của Cảnh Giáng Sinh (4/12/2019)

“Hãy về nhà”: Lời tâm huyết ĐGH Phanxicô dành cho người trẻ Công giáo Việt Nam (24/11/2019)

Tông huấn "Niềm vui của tin mừng" (30/8/2014)

Tông huấn Familiaris Consortio (4/7/2012)

Thông điệp Humanae Vitae (4/7/2012)

Tìm hiều sắc lệnh Ad Gentes (Đến với muôn dân) (11/5/2012)

Sắc lệnh Ad Gentes (Đến với muôn dân) trong đời sống Giáo hội hôm nay (11/5/2012)

Tông huấn Giáo Hội tại Á Châu (1) (18/11/2010)

Sứ điệp của Đức Thánh Cha BêNêĐicTô XVI nhân ngày thế giới sứ mạng 2010 (18/11/2010)

Huấn thị DIGNITAS PERSONAE (Phẩm giá con người) về một số vấn đề đạo đức sinh học (18/11/2010)
 Các tin khác:  1   2   3   4 
 
 
  Trang chủ Giáo hội Gia đình Bồi dưỡng tâm linh Mục vụ Chuyên đề Thông tin diễn đàn