SỐNG MÙA VỌNG |
|
LỄ CHÚA GIÁNG SINH
Lễ đêm
“Phần ngươi, hỡi Bêlem Épratha, ngươi nhỏ bé nhất
trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho
xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en.
Nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ thuở xa
xưa.” (Mk. 5,1)
Thành phố Bêlem
Thành
phố Bêlem đóng một vai trò tên tuổi trong Cựu Ước.
Rachel vợ của Giacob, được biết đã chết trên đường
đến Bêlem. Thành phố đã xảy ra câu chuyện tình yêu
của ông Boaz và bà Ruth, cháu của vua Đa-vít.
Nhưng ngày nay, với người Kitô giáo, Bêlem được biết
đến là nơi Chúa Giêsu sinh ra. Ở khoảng 5 dặm về
phía Nam Giêrusalem, Bêlem đã một thời là nơi cư trú
của Maria và Giuse (xuất thân từ nhà Đa-vít).
Tiếng Do Thái, Bethlehem có nghĩa là “ngôi
nhà lúa gạo” (ở đó có nhiều cánh đồng), các sử gia
cho rằng nó bắt nguồn từ Lahama, thần sinh sản của
Canaan. Bêlem cũng được gọi là Épratha (có nghĩa là
phong phú, phì nhiêu).
Vào năm 326, hoàng đế Roma Constantin ra lệnh xây
dựng một nhà thờ tại nơi mà Chúa Giêsu đã sinh ra.
Gần 200 năm sau, ngôi giáo đường và những bức tường
thành ở đó đã bị phá hủy bởi những người Samari nổi
loạn.
Nhà thờ Chúa Giáng Sinh đã được xây dựng lại, và đã
thành bình địa khi người Ba Tư xâm chiếm vào năm 614
- người ta cho rằng, nguyên nhân là do những tác
phẩm nghệ thuật ở đó vẽ Ba Vua mặc quần áo… người Ba
Tư.
Ngày nay, Bêlem thuộc Bờ Tây và đặt dưới quyền cai
trị của người Palestine.
Lạy Đấng Emmanuel, là Vua và là người ban hành luật
lệ, Vua của các Vua, xin hãy đến giải thoát chúng
con.
Ngôi sao Bêlem
Vào năm 1911, một học giả Thánh Kinh dòng Đa Minh là
Linh mục Marie Joseph Lagrange đang sống ở
Giêrusalem khi sao chổi xuất hiện trên bầu trời.
Sao chổi được thấy rất rõ ở hướng Đông, nhưng khi di
chuyển ngay bên trên đỉnh đầu thì nó mờ dần. Vài
ngày sau, ánh sáng sao chổi lại xuất hiện ở phía
Tây. Ngài nghĩ, có lẽ đó là ngôi sao Giáng Sinh được
các mục đồng nhìn thấy ở Bêlem.
***
Albert
Lagrange sinh ngày 07.3.1855, ở Pháp, vào dòng Đa
Minh và theo học luật, sau đó ông phục vụ trong quân
ngũ. Ngài nhận thừa tác vụ Linh mục ngày 22.12.1883,
và lấy tên thánh là Marie Joseph. Sau khi chịu chức,
ngài dạy Lịch sử Giáo hội và Kinh Thánh.
Vào năm 1889, Cha Lagrange được gửi đến Giêrusalem.
Và đã thành lập một trường nghiên cứu Kinh Thánh tại
một nơi trước đây là một lò mổ của người Thổ Nhỉ Kỳ,
được cho là nơi Thánh Stephanô bị giết.
Ngài là một trong những học giả Công giáo đầu tiên
khích lệ việc nghiên cứu phê bình Thánh Kinh. Năm
1902, Đức Giáo Hoàng lấy tên ngài đặt cho một Ủy Ban
giáo Hoàng về Kinh Thánh mới thành lập để hướng dẫn
sự phát triển việc nghiên cứu Kinh Thánh Công giáo.
Công trình chú giải của
ngài thật công phu, xứng đáng được giới học giả trí
thức công giáo trích dẫn. Tuy nhiên, trong lãnh vực
Kinh Thánh đa dạng, mênh mông và đầy phức tạp, cũng
không thiếu những chống đối và những thử thách. Dầu
vậy, với lòng trung thành và tận tụy, cha Lagrange
vẫn can đảm theo đuổi đến cùng, công cuộc nghiên cứu
Kinh thánh và sứ mạng phục vụ Giáo hội.
Năm 1935, vì lý do sức khỏe ngài rời Giêrusalem để
trở về Pháp, và sống trong tu viện Saint-Maximin. Ba
năm sau, ngày 10.3.1938, ngài được Chúa gọi về trong
thanh thản và bình an. Năm 1967, di hài của ngài
được đưa về Giêrusalem và đặt trong đại thánh đường
Saint-Etienne.
Gần 25 năm sau, những hoạt động của ngài đưa đến
“Hiến chế Tín lý về Mạc khải của Thiên Chúa” được
Công đồng Vatican II ban hành.
***
“Thời ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền
kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc
kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông
Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri. Ai nấy đều phải
về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông
Giu-se từ thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê lên thành
vua Đa-vít tức là Bê-lem, miền Giu-đê, vì ông thuộc
gia đình dòng tộc vua Đa-vít. Ông lên đó khai tên
cùng với người đã thành hôn với ông là bà Ma-ri-a,
lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì
bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh
con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong
máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà
trọ.
Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài
đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. Bỗng sứ thần Chúa
đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung
quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần
bảo họ: "Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một
tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn
dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em
trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức
Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người : anh em sẽ
gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng
cỏ." Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất
tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng :
"Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
bình an dưới thế cho loài người Chúa thương."
(Lc 2,1-14)
Bạn có nhớ những gì thường làm khi bế một em bé?
Mọi người thường như thế này:
Cặp mắt:
Nhìn chăm chăm vào mặt bé, không nói nên lời trước
sự tuyệt vời, lạ lùng, đáng yêu… xâm chiếm cõi lòng.
Đôi môi:
Được sử dụng nhiều khi bồng ẵm con nít. Mím môi, bập
môi thành những tiếng không ý nghĩa, và hôn lên đôi
má bầu bĩnh của bé.
Đôi tay:
Nếu đôi tay bạn chưa từng ôm vật gì quý giá, thì bạn
sẽ có kinh nghiệm khi bồng ru một sinh linh bé nhỏ.
Thật khó để diễn tả cảm giác này, nhưng ai cũng có
thể nhận ra nó. Bạn sẽ nhẹ nhàng đu đưa từ bên này
sang bên kia, lặp đi lặp lại hoài một động tác, cả
thân người nghiêng ra trước rồi ra sau.
Toàn thân:
Bạn có nhận ra rằng mình sẽ không thể đứng yên nếu
ẵm một em bé trong vòng tay.
Trong cuộc đời, có lần nào đó, bạn đã dừng lại để
nhớ rằng, mình đã từng được bồng ẵm như vậy? Một ai
đó đã ôm ấp bạn trong vòng tay như bồng ẵm trẻ thơ?
Có bao giờ bạn nhận ra rằng, chính Thiên Chúa đã
hành xử với bạn như thế? Không chỉ khi ta còn là một
đứa bé, mà ngay giờ đây. Ngay cả khi ta gặp những
buồn phiền, đau khổ, mà chạy đến với Ngài.
Đứa trẻ này là ai?
Là chính tôi. Trong vòng tay Thiên Chúa.
Dành vài phút thinh lặng với Chúa.
Jos. Nguyễn Hùng Cường
|