Giới thiệu
 Chia sẻ tâm tình
 Lịch Sinh Hoạt (HT)
 Tư liệu phim ảnh
 Hình ảnh sinh hoạt
 

Lịch công giáo
Giờ lễ các nhà thờ
 
Tĩnh Tâm Nữ 15-16/07/2023 Tĩnh Tâm Nam 1-2/7/2023 Ngày Bạn Trẻ 27-28/05/2023
Ngày Gia Đình 2023 Lễ Thánh Gia 2022 Ngày Bạn Trẻ 4-5/6/2022
Chuyến du hành Đông Bắc và Hành hương Sở kiện - Mừng Ngày Gia Đình 21-25/01/2021 Chuyến du hành Bến Tre  - Hành hương Đức Mẹ La Mã và Linh địa Ba Giồng - Mừng Ngày Gia Đình 9&10/01/2021 Mừng Bổn Mạng và Ngày Gia Đình 27-12-2020
Mừng 25 Năm Vĩnh Ước Thầy-Cô NGÀY GIA ĐÌNH 2020 - MỪNG 25 NĂM NGÀY GIA ĐÌNH 2019
NGÀY GIA ĐÌNH 2018 Tĩnh Tâm Huynh Trưởng Thường Niên 2017 HÌNH ẢNH NGÀY NGHỈ VỚI CHÚA CỦA CÁC CẶP VỢ CHỒNG CĐ STMTY Tại Tu Viện Phanxicô - Thủ Đức  15-16/7/2017
Ngày Bạn Trẻ 2017 Chuyến đi Vinh-Lào-Thái NGÀY GIA ĐÌNH 2017
TĨNH TÂM QUI ƯỚC 09-2016 Ngày Bạn Trẻ 2016
 
   

Chuyên Mục Âm Nhạc
   
   
THƯ CỦA ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II GỜI CHO CÁC GIA ĐÌNH
 
Các Gia đình thân mến!
 
1. Việc cử hành năm của gia đình cho tôi có dịp may đến gõ cửa nhà bạn, tôi muốn thân yêu chào thăm các bạn và truyện trò với các bạn. Tôi làm việc ấy qua lá thư này, khởi đầu bằng lời trong thông điệp Ðấng cứu chuộc con người, mà tôi đã công bố vào đầu sứ vụ Tôi kế vị Thánh Phêrô. Hồi ấy Tôi viết: "Con người là đường của Giáo hội" (1).

Qua kiểu nói này, Tôi muốn trước tiên gợi ra vô số con đường trên đó con người đang đi, và đồng thời Tôi muốn nhấn mạnh mong muốn sâu xa của Giáo hội là đồng hành với con người trong hành trình trên mọi nẻo đường cuộc sống trên trần gian. Giáo Hội chia sẻ những niềm vui và hy vọng, những nỗi buồn và âu lo (2) của hành trình hàng ngày của con người, trong niềm xác tín sâu xa rằng: chính Chúa Giêsu đã sai giáo hội đến các nẻo đường ấy; chính Ngài đã trao phó con người cho Giáo Hội, đã trao phó như "con đường" của sứ mệnh và sứ vụ của Giáo Hội.
 
Gia đình, con đường của Giáo Hội
 
2. Trong nhiều đường như thế, gia đình là đường trước tiên và quan trọng nhất: đó là con đường chung, mà lại vẫn riêng, rất ư duy nhất, như mỗi người cũng duy nhất: một con đường mà là người thì không tránh được. quả vậy, bình thường người ta đến trong thế giới qua gia đình; cho nên có thể nói là người mang nợ gia đình việc hiện hữu thành người. Nếu thiếu gia đình, sẽ tạo nên trong nhân vị chào đời một sự thiếu sót khiến bận tâm và đau đớn cứ đè nặng trên cả cuộc đời về sau. Giáo Hội âu yếm ưu tư nghiêng về những người sống trong tình cảnh ấy, vì Giáo Hội biết rõ vai trò căn bản mà gia đình được gọi để đóng góp. Hơn nữa, Giáo Hội biết rằng: bình thường, con người rồi sẽ đến lượt rời khỏi gia đình, lập một hạt nhân gia đình mới là ơn gọi riêng mình. Dù người có chọn ở một mình, thì gia đình cũng vẫn như là chân trời hiện hữu, là cộng đoàn căn bản trong đó ăn sâu một hệ thống các tương quan xã hội, từ những tương quan trực tiếp nhất, thân cận nhất, đến những tương quan xa nhất. Ta đang chẳng nói về "Gia Ðình nhân loại"khi nói về toàn bộ mọi người sống trên thế giới sao?

Gia đình có nguồn gốc trong chính tình yêu của đấng tạo hoá dành cho thế giới được Ngài sáng tạo như đã nói "từ nguyên thuỷ" trong sách Sáng thế (1, 1). Trong Tin mừng, Chúa Giêsu khẳng định điều ấy đầy đủ: "Thiên Chúa đã yêu thương đến nỗi đã trao ban con duy nhất của Ngài" (Ga 3, 16). Người con duy nhất đồng bản tính với Chúa Cha, "Thiên Chúa bởi Thiên Chúa Ánh sáng bởi Ánh sáng", đã đi vào lịch sử loài người qua gia đình: "Nhờ việc nhập thể, Con Thiên chúa một cách nào đó đã kết hợp với mỗi người. Ngài đã lao động bằng đôi tay con người, Ngài đã yêu thương bằng trái tim con người. Sinh ra bởi Ðức trinh nữ Maria, Ngài thực đã trở nên một người trong chúng ta, nên giống chúng ta trong mọi sự, ngoại trừ tội lỗi" (3). Cho nên nếu Chúa Kitô " biểu lộ đầy đủ con người cho chính mình" (4) trước hết là qua gia đình mà trong đó Ngài đã chọn để sinh ra và lớn lên vậy. Ta biết Chúa cứu chuộc từng sống ẩn dật tại Nazareth trong phần lớn đời Ngài, "tuân phục" (Lc 2, 51), xét theo là "con người", đối với Ðức Maria mẹ Ngài và đối với Thánh Giuse người thợ mộc, đức "tuân phục" thảo hiền này, lại chẳng là biểu lộ đầu tiên sự vâng phục Cha của Ngài, "cho đến chết" (Ph 2, 8) qua đó Ngài đã cứu chuộc thế gian sao?

Mầu nhiệm Thần linh nhập thể của Ngôi lời, như vậy có một tương quan chặt chẽ với gia đình nhân loại. Và như thế, không những với một gia đình là gia đình Nazareth, mà cách nào đó với mọi gia đình, tương tự như điều Công đồng VaticanII dạy rằng: Con Thiên Chúa, qua nhập thể, như "đã kết hợp với mọi người" (5). Nối bước Chúa Kitô "đã đến" trần gian "để phục vụ" (Mt 20, 28), Giáo hội coi rằng phục vụ gia đình là một trong những công việc chính của mình. Theo chiều hướng này, con người và gia đình đều lập "Con đường của Giáo Hội".

Năm của Gia Ðình
 
3. Chính vì những lý do này mà Giáo hội hân hoan chào đón sáng kiến của Liên Hiệp Quốc đã lấy năm 1994 làm năm Quốc Tế gia đình. Sáng kiến này làm sáng tỏ sự kiện coi vấn đề Gia đình là căn bản cho các Quốc gia hội viên Liên Hiệp Quốc. Nếu Giáo Hội muốn tham gia vào sáng kiến như thế, là vì Giáo hội cũng được Chúa Kitô sai đến với " muôn dân" (Mt 28, 19). Ðàng khác, không phải là lần đầu tiên nhận sáng kiến Quốc Tế của Liên Hiệp Quốc làm của mình. Chẳng hạn chỉ cần nhắc đến Năm Quốc Tế Tuổi Trẻ 1985. Cũng nhờ cách này, Giáo hội làm cho mình hiện diện trên Thế giới, thực hiện mục tiêu rất thân thương với Ðức GIOAN XXIII, và cũng là mục tiêu cảm hứng nên Hiến chế Gaudium et Spes của cộng đồng.

Trong Lễ Thánh Gia 1993, trong toàn thể cộng đồng Giáo hội, đã bắt đầu "Năm Quốc Tế Gia Ðình" chặng đường ý nghĩa trên hành trình chuẩn bị Năm Jubilaeum trọng đại 2000, đánh dấu kết thúc Thiên niên kỷ thứ II và bắt đầu Thiên niên kỷ thứ III kề từ khi Chúa Giêsu Kitô giáng sinh. Năm nay phải dẫn Ta đem trí lòng hướng về Nazareth, ngày 26. 12 vừa qua, năm Quốc Tế Gia Ðình được khai mạc bằng việc cử hành Thánh Lễ do Vị Khâm sứ Toà Thánh.

Suốt năm này, cần phải tái khám phá những chứng từ Tình thương mến và âu lo của Giáo hội dành cho Gia Ðình, Tình thương mến và âu lo được biểu lộ ngay từ sơ khai Kitô giáo, thời mà Gia đình được coi là " Giáo hội tại gia", rất là ý nghĩa. Thời ta hôm nay, chính Tôi rất hay dùng kiểu nói "Giáo hội tại gia" mà Công đồng đã nhận làm của Công đồng (6), và Tôi hằng mong cho nội dung ấy vẫn luôn sống động và hiện tại. Ước mong này không bị xoá nhoà do ý thức các hoàn cảnh mới của sự hiện hữu các gia đình trong thế giới ngày nay. Ðiều này làm cho tựa đề mà Công đồng đã chọn, trong Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, để chỉ định những công việc của Giáo hội trong tình hình hiện nay, trở nên ý nghĩa hơn bao giờ hết: "Làm gía trị phẩm gía hôn nhân và gia đình" (7). Sau Công đồng, Tông huấn Familiarisconsortio năm 1981 nên một qui chiếu quan trọng. Trong bản văn này đề cập một kinh nghiệm rộng lớn và phức tạp liên quan đến gia đình: Gia đình khắp các dân tộc và các nước, mọi thời và mọi nơi, vẫn là "con đường của Giáo hội". Theo một nghĩa, gia đình vẫn là "con đường của Gíao hội", ở đâu mà gia đình còn chịu những khủng hoảng nội bộ hay còn phải chịu những ảnh hưởng văn hoá, xã hội, kinh tế tai hại nó xoi mòn sự cố kết trong gia đình, khi chúng chưa là cản trở việc đào tạo gia đình.
 
Cầu nguyện
 
4. Qua lá thư này, tôi muốn nói với từng gia đình cụ thể; chứ không phải với "gia đình trong trừu tượng"; những gia đình ở mọi miền trên trái đất, bất kỳ ở kinh độ, vĩ độ nào và bất kỳ họ thuộc nhiều loại phức hợp văn hoá hay lịch sử nào. Tình yêu mà "Chúa Cha đã yêu thế gian" (Ga 3, 16), tình yêu mà Chúa Kitô "đã yêu đến cùng" tất cả và từng người (GA 13, 1) cho Tôi có thể gửi sứ điệp này đến từng gia đình, "tế bào" sự sống của đại " gia đình" nhân loại khắp hoàn cầu. Chúa Cha, đấng tạo thành vũ trụ, và Ngôi Lời nhập thể, Ðấng cứu chuộc nhân loại, lập nên ngọn nguồn việc mở rộng bao la này cho mọi người, như cho anh chị em, và các Ðấng mời gọi đưa mọi người vào cầu nguyện, bắt đầu bằng những từ thật là cảm kích "Lạy Cha chúng con.. ".

Cầu nguyện làm cho Con Thiên Chúa ở giữa chúng ta: "Hai hay ba người họp nhau cầu nguyện, nhân danh Ta, Ta ở giữa họ" (Mt 18, 20). Lá thư gửi cho các gia đình đây, trước tiên muốn được là lời nguyện cầu Chúa Kitô xin Ngài ở lại trong từng gia đình con người; muốn là lời kêu van dâng lên Ngài, qua gia đình nhỏ bé gồm Cha mẹ con cái, xin Ngài cư ngụ trong đại gia đình các dân nước, để cùng với Ngài, chúng ta có thể cùng đọc trong chân lý, "Lạy Cha chúng con". Phải làm sao cho cầu nguyện nên yếu tố chủ động trong năm của gia đình trong Giáo hội: Cầu nguyện củagia đình, cầu nguyện cho gia đình, cầu nguyện với gia đình.

Thật là ý nghĩa, khi mà trong cầu nguyện và qua cầu nguyện, con người khám phá một cách vừa đơn giản vừa sâu sắc nhất, ra nhân cách đích thực mình; trong cầu nguyện "bản ngã" con người nắm bắt dễ dàng hơn, cái chiều sâu phẩm chất nhân vị mình. Việc ấy cũng gía trị đối với gia đình, không chỉ là "tế bào" căn bản của xã hội, mà còn có diện mạo đặc biệt. Diện mạo này được minh định trước hết và căn bản, và được kiên vững, khi các thành phần gia đình gặp nhau cùng trong một lời nguyện chung: "Lạy Cha chúng con !" Cầu nguyện củng cố sự vững chắc và cố kết tinh thần của gia đình, góp phần làm cho gia đình tham dự vào " Sức mạnh" của Thiên Chúa. Trong " lời chúc hôn" long trọng trong nghi lễ hôn phối, chủ tế kêu cầu Chúa cho đôi Tân hôn: " Xin Cha đổ trên họ hồng ân Thánh Thần, để họ nhờ tình yêu tràn đầy trong trái tim, họ được luôn trung thành với giao ước hôn nhân" (8), chính từ việc "tuôn tràn Thánh Thần" này ma sinh ra sức mạnh nội tâm gia đình, cũng như quyền năng hiệp nhất các gia đình trong tình yêu và chân lý.
 
Yêu thương và lo âu cho các gia đình
 
5. Ước mong Năm của Gia đình nên một lời cầu nguyện chung, không ngừng, của các " Giáo hội tại gia" và của toàn dân Chúa ! Ước chi ý cầu nguyện này cũng bao gồm các gia đình đang gặp khó khăn hay nguy hiểm, những gia đình thất vọng hay chia rẽ, và những gia đình ở trong những tình cảnh mà Tông huấn "Familiaris Consortio" gọi là "bất thường" (9): Ước mong cho họ có thể cảm thấy mình được tình yêu thương và lo âu của anh chị em họ nâng đỡ !

Xin cho trong năm của Gia đình, việc cầu nguyện tạo nên trước tiên một chứng từ phấn khởi từ các gia đình đang thực hiện ơn gọi làm người và làm Kitô hữu trong hiệp thông gia đình. Có đông những gia đình như thế ở mọi quốc gia, mọi gíao phận, mọi giáo xứ. Ta có lý để nghĩ rằng những gia đình ấy tạo nên một "định luật", dù phải lưu ý nhiều "hoàn cảnh bất thường". Kinh nghiệm cho thấy tầm quan trọng của Gia đình đang sống theo những qui luật luân lý, để cho người sinh ra và được đào tạo trong gia đình ấy, không ngần ngại đi trên con đường sự Thiện, vốn đã ghi trong lòng người. Có nhiều tổ chức, được nhiều phương tiện rất mạnh mẽ nâng đỡ, hình như nhằm làm tan rã các gia đình. Ðôi khi người ta như tìm mọi cách để trình bày như là "điều hoà" và hấp dẫn, những hoàn cảnh thật ra là "bất thường", bằng cách mặc cho chúng một vẻ bên ngoài khá mê hoặc. Thật thế, những tổ chức ấy mâu thuẫn với "Chân lý và Tình yêu" là hai điều phải cảm hứng và hướng dẫn mọi tương quan giữa các ngưới Nam và Nữ, do đó những tổ chức ấy là nguyên nhân sinh căng thẳng và chia rẽ trong các gia đình, mang nhiều hậu quả trầm trọng, đặc biệt đối với con cái. Lương tâm bị mờ tối, điều thiện mỹ bị bóp méo, tự do thấy mình bị thay thế bằng nô lệ thực sự. Ðứng trước cảnh ấy, những lời của Thánh Tông đồ Phaolô về tự do mà Chúa Kitô đã giải phóng chúng ta, và về nô lệ do tội lỗi gây ra (Gl 5, 1) vẫn còn mang tính thời sự đặc biệt và khích lệ chúng ta.

Cho nên ta hiểu thật là thuận lợi và cần thiết nữa phải có Năm của Gia đình trong Giáo hội; thật là không thể miễn có chứng từ của các gia đình đang hàng ngày hằng sống ơn gọi của mình; thật là khẩn thiết phải có lời cầu nguyện rộng lớn của các gia đình, được tăng cường và trải rộng trên hoàn cầu, mà trong đó biểu lộ lời tạ ơn đối với Tình yêu trong chân lý, vì " việc tuôn tràn ơn Thánh Thần" (10), vì sự hiện diện của Chúa Kitô ở giữa các Cha mẹ và con cái, của Chúa Kitô cứu thế và vị Lang quân đã " Yêu thương ta đến cùng" (Ga 13, 1). Chúng ta xác tín tự đáy lòng rằng tình yêu ấy lớn hơn tất cả (1Cr 13, 13) và ta tin rằng có thể vượt thắng tất cả những gì không phải là yêu thương.

Ước mong năm nay không ngừng dâng lên lời cầu của Giáo hội, lờin cầu của các gia đình là " Giáo hội tại gia" ! Ước mong lời kinh này trước hết được Thiên chúa nhậm lời, sau là được người ta nghe thấy, hầu cho họ đừng rơi vào nghi họăc, và cho những ai chao đảo vì tính yếu đuối con người, không gục ngã trước giáng vẻ đánh lừa của những cái "tốt" chỉ tốt bên ngoài, như những cái "tốt" mà mọi cám dỗ giới thiệu !

Tại Thành Cana xứ Galilêa, nơi Chúa Giêsu được mời tiệc cưới, Mẹ của Ngài cũng đến dự, đã bảo những người giúp đám rằng: "Ngài bảo các anh làm điều gì, các anh làm điều ấy" (Ga 2, 5). Cho ta cũng thế, đang bước vào Năm của gia đình, Ðức Maria cũng nói những lời ấy. Và trong thời điểm lịch sử quan trọng này, những điều Chúa Kitô nói cho chúng ta nghe, tạo nên tiếng gọi mạnh mẽ phải cầu nguyện rộng khắp với các gia đình và cho các gia đình. Ðức trinh nữ Maria mời ta hiệp nhất, bằng cầu nguyện, với tâm tình của Chúa Con bằng yêu thương mọi gia đình. Chúa đã bày tỏ lòng yêu thương ấy vào đầu sứ mệnh Cứu độ, chính bằng sự hiện diện thánh hoá tại Cana xứ Galilêa, sự hiện diện này hằng tiếp mãi.

Ta hãy cầu cho các Gia Ðình trên khắp địa cầu, nhờ Chúa Kitô với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô ta hãy cầu xin Chúa Cha, "là nguồn tình phụ tử trên trời dưới đất đã thừa hưởng danh xưng" (Eph 3, 15).
 
I NỀN VĂN MINH TÌNH YÊU
 
Chúa đã dựng nên họ, có Nam có Nữ

6. Vũ trụ, bao la và dị dạng, là thế giới của mọi sinh vật, đã được ghi trong tình cha của Thiên Chúa như là nguồn suối vậy (Eph 3, 14-16). Tất nhiên nó được ghi theo tiêu chuẩn loại suy, nhờ đó ta có thể phân biệt, ngay từ đầu sách Sáng thế, tính thực tại của Tình làm Cha và tình làm Mẹ, cho nên cũng là thực tại của Gia Ðình nhân loại, Chìa khoá chú giải, có ở nguyên tắc "là hình ảnh" và " giống như" Thiên Chúa, mà bản văn Kinh thánh nói lên rất rõ (St 1, 2). Thiên Chúa sáng tạo bằng sức mạnh lời Ngài: " Hãy có !" (chẳng hạn St 1, 3). Thật là ý nghĩa như Lời Chúa, trong trường hợp sáng tạo con người, lại được bồ túc bằng những lời khác: "Ta làm nên con người theo hình ảnh, giống như Ta" (St 1, 26). Trước khi dựng con người, Ðấng Sáng Tạo như trở về Mình để tìm mẫu và cảm hứng, trong mầu nhiệm Hữu thể của Ngài lúc ấy được biểu lộ cách nào đó như " Chúng ta" trong Thiên Chúa. Từ mầu nhiệm này, qua đường tạo dựng mà sinh ra con người: "Thiên Chúa dựng nên con người theo hình ảnh Ngài; theo hình ảnh Ngài, Ngài đã dựng nên người có Nam có Nữ, Ngài đã dựng nên họ". (St 1, 27)

Thiên Chúa bảo hai hữu thể mới này mà chúc phúc cho các vị ấy: " Hãy sinh sôi, hãy nên đông đúc, làm đầy mặt đất và khắc phục trái đất" (St 1, 28). Sách Sáng thế dùng những thành ngữ đã dùng ở tình huống sáng tạo các sinh vật khác; " Hãy nên đông đúc !", nhưng ý loại suy đã thật là rõ. Ðây không là loại suy của sự sinh sản và của Tình làm cha làm mẹ, phải đọc theo ánh sáng văn mạch sao? Ngoại trừ con người, không có sinh vật nào được dựng nên theo " hình ảnh Thiên Chúa giống như Thiên Chúa". Về mặt sinh học, vẫn giống như mọi sinh vật trong thiên nhiên, nhưng tình làm cha làm mẹ còn có trong mình, một cách chính yếu và độc đáo, " sự giống như" giống Thiên Chúa, trên sự giống như ấy đã xây dựng Gia Ðình, được hiểu như cộng đồng sự sống con người, như cộng đồng khác nhân vị được kết hiệp trong tình thương (Comunio personarum).

Theo ánh sáng Tân ước, có thể thấy rằng mẫu kiểu nguồn cội Gia Ðình phải được tìm trong chính Thiên Chúa, trong mầu nhiệm ba ngôi của sự sống Thiên Chúa. Từ " Chúng ta" của Chúa, tạo ra mô hình muôn thuở " chúng ta" con người, và trước hết là " Chúng ta" gồm một người Nam, một người Nữ, được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, giống như Ngài. Những lời trong sách Sáng thế chứa đựng chân lý về con người, chân lý được kinh nghiệm con người tương ứng Ngay "từ khởi nguyên" con người được dựng nên có Nam có Nữ, đời sống tập thể con người –của những cộng đồng nhỏ bé đến toàn thể xã hội- đều mang dấu chỉ của lưỡng tính ban đầu. Từ cặp đầy tiên ấy phát sinh "Nam tính" hay " Nữ tính" các cá nhân, và cũng từ đó, cộng đồng rút ra đặc tính và sự phong phú của tính bổ túc của các nhân vị. Hình như câu sau đây của sách Sáng thế muốn qui chiếu: " Là Nam và Nữ, Ngài đã dựng nên họ" (St 1, 27). Cũng ở đây có lời khẳng định phẩm giá bình đẳng của người Nam và người Nữ: Cả hai đều là người như nhau. Việc thiết định nên họ, với phẩm giá đặc loại từ đó sinh ra, ngay " Từ khởi nguyên" đã định ra các đăc tính của thiện ích chung nhân loại, theo mọi chiều kích, theo mọi môi trường sống. Cho thiện ích chung này, cả hai, người Nam và người Nữ, đều mang phần riêng đóng góp, nhờ đó, ở ngay căn cơ việc đồng sinh đồng tử con người, vốn có đặc tính của hiệp thông và bổ túc.
 
Giao ước Hôn Nhân
 
7. Gia Ðình luôn luôn được coi như biểu hiệu trước tiên và căn bản của bản tính xã hội con người. Cứ bản chất, quan niệm này đã không thay đổi, kể cả ngày nay. Nhưng nay người ta thích làm nổi bật điều mà, trong Gia Ðình – lập nên cộng đồng nhỏ bé cơ bản nhất của con người –điều mà sự đóng góp bản thân của người Nam và người Nữ mang lại. Thật thế, Gia Ðình là cộng đoàn những nhân vị, mà cho họ, cách hiện hữu và sống với nhau thực, là sự hiệp thông (Comunio personarum). Ở đây cũng thế, vì không chạm tói sự siêu việt tuyệt đối của Ðấng Tạo hoá đối với các thụ tạo, cho nên nổi bật sự qui chiếu mẫu mực vào " Chúng ta" của Chúa. Chỉ có các nhân vị mới có thể hiện hữu "trong hiệp thông". Gia Ðình phát sinh từ hiệp thông phu thê, mà Công đồng Vatican II gọi là "Giao ước", theo đó người Nam và người Nữ "trao thân và tiếp nhận nhau" (11).

Sách sáng thế mở cho ta thấy chân lý này, khi đối chiếu vào việc thiết lập Gia Ðình bằng Hôn nhân, mà khẳng định rằng "Người Nam rời xa cha mẹ và luyến ái vợ mình, và cả hai nên một huyết nhục" (St 2, 24). Trong Tin mừng, Chúa Kitô đối đáp với nhóm Biệt phái, đã nhắc lại những lời ấy, và thêm: "Như vậy, họ không còn là hai, nhưng là một xương thịt, cho nên điều Thiên Chúa đã kết hợp con người không được phân ly" (Mt 19, 6). Ngài lại mạc khải nội dung quy luật của một sự việc đã có "từ ban đầu" (Mt 19, 8) và còn duy trì mãi nơi mình chính cái nội dung ấy. Nếu như Thày kiểm nhận điều ấy "bây giờ", là Ngài nói để làm sáng rõ và không hàm hồ- bên thềm Tân ước-đặc tính bất khả phân ly của hôn nhân như nền tảng của thiện ích chung cho gia đình.

Khi cùng với Thánh Tông đồ, Tôi quỳ gối trước mặt Chúa Cha- từ Ngài phát sinh mọi quyền phụ tử và mẫu tử (x. Eph 3, 14-15), Tôi ý thức rằng sự việc làm Cha Mẹ là biến cố, nhờ đó, gia đình đã được thiết lập nhờ giao ước hôn nhân, bây gìơ được hiện thực " theo nghĩa đầy đặn và đặc biệt của từ ấy" (12). Việc làm Mẹ gỉa thiết tất nhiên việc làm Cha và đối lại, việc làm Cha gỉa thiết tất nhiên việc làm Mẹ: đó là kết quả của lưỡng tính mà Ðấng Tạo hoá đã ban cho con người "từ nguồn gốc".

Tôi nhắc đến hai khái niệm cận kề nhưng không đồng nhất: Khái niệm "hiệp thông " và khái niệm " cộng đồng", sự "hiệp thông" liên quan tới quan hệ cá nhân giữa "bản ngã" và "xa ngã". Trái lại, "cộng đồng" vượt quá sơ đồ này, để theo hướng một " xã hội", một "chúng ta" (ngã môn). Gia đình là cộng đồng những nhân vị, nên là " xã hội" đầu hết nhân loại. Gia đình xuất hiện vào khi thực hiện giao ước hôn nhân, mở cho đôi vợ chồng sự hiệp thông tình yêu và sự sống lâu bền, bổ túc đầy đủ và đặc biệt, qua việc lúc có đứa con chào đời: sự " hiệp thông "đôi vợ chồng làm hiện hữu "cộng đồng " gia đình được thâm tình nhuần thấm yếu tố tạo nên yếu tính riêng của "hiệp thông "nào khác, sánh bằng hiệp thông được thiết lập giữa một người mẹ và một người con mà bà đã mang trong dạ, rồi cho chào đời chăng?

Trong gia đình được thiết lập như vậy đã hiện ra một đơn vị mới, trong đó hoàn thành đầy đủ tương quan "hiệp thông " cha mẹ. Kinh nghiệm cho thấy sự hoàn thành này cũng là một bổn phận và là một thách đố. Bổn phận bó buộc đôi bạnvà làm cho giao ước ban đầu hoạt động. Con cái họ sinh ra – đây là thách đố nữa-chúng phải củng cố giao ước này, làm phong phú và đào sâu hiệp thông hôn phối của cha mẹ. Nếu việc ấy không đạt, thì phải hỏi xem có phải sự ích kỷ, nó ẩn kín trong tình yêu của người Nam và người Nữ, cứ theo xu hướng con người về điều xấu, sự ích kỷ ấy chẳng lớn hơn tình yêu sao?. Ðôi bạn phải biết đến điều ấy. Ngay ban đầu họ phải hướng lòng trở về Thiên Chúa "từ Ngài xuất phát mọi tình phụ tử" để cho tình làm cha làm mẹ của họ kín múc nơi suối nguồn này một sức mạnh hằng canh tân tình yêu.

Tình làm Cha làm Mẹ tự nó là khẳng định đặc biệt cho tình yêu, chúng cho họ khám phá ra sự bao la sâu thẳm ban đầu của tình yêu ấy. Nhung việc ấy không tự động xảy ra. Ðó là nhiệm vụ trao cho cả hai người, chồng cũng như vợ. Trong đời họ, tình làm cha làm mẹ lập nên một "nét mới" và một sự phong phú đáng khen mà ta phải trân trọng đề cập tới.

Kinh nghiệm cho thấy rằng tình yêu con người, được thiên nhiên hướng về làm cha làm mẹ, đôi khi bị thương tổn bởi khủng hoảng sâu xa, cho nên bị đe doạ nghiêm trọng. Trong trường hợp này, phải xem xét việc nhờ các cố vấn hôn nhân gia đình giúp đỡ, qua đó có thể xin các nhà tâm lý, các nhà tâm trị liệu giúp đỡ chẳng hạn. Tuy nhiên không thể quên gía trị bền bỉ của lời Thánh Tông đồ: "Tôi quỳ gối nguîên cầu Chúa Cha từ Ngài phát xuất mọi tình phụ tử trên trời dưới đất". Hôn nhân, hôn nhân theo bí tích, là giao ước của hai người trong tình yêu. Và tình yêu chỉ được sâu đậm và gìn giữ bởi tình yêu. Tình yêu "tràn đầy trong lòng ta nhờ Chúa Thánh Thần được trao ban cho ta" (Rm 5, 5). Cầu nguyện trong Năm của gia đình lại chẳng phải tập trung về điểm gay go và quyết liệt, được thiết lập bởi mối liên kết năng động, bởi sự chuyển tình yêu của vợ chồng qua sinh sản, và do đó, qua tình phụ tử mẫu tử sao? Chẳng phải chính ở đây đã phải cần đến " việc tràn đổ ơn Chúa Thánh Thần, đã từng khấn xin khi cử hành bí tích hôn phối đó sao?

Thánh Tông đồ, quỳ gối trước mặt Chúa Cha, khấn xin Ngài "đoái thương trang bị cho bạn bằng quyền năng chính Chúa Thánh Thần để kiên vững con người nội tâm nơi bạn" (Eph 3, 16). "Sức mạnh con người nội tâm " cần cho đời sống hôn nhân gia đình, đặc biệt trong những lúc khủng hoảng, tức là khi tình yêu, được biểu lộ theo nghi thức phụng vụ, là trao cho nhau những lời ưng thuận kết hôn " Tôi hứa trung thành với em. anh… mọi ngày trong đời tôi để vượt qua cơn thử thách khó khăn.

8. Chỉ có những "nhân vị" mới đủ tư cách nói lên những lời ấy;chỉ có những nhân vị mới đủ khả năng sống "trong hiệp thông "dựa trên sự chọn lựa nhau, sự chọn lựa là, lẽ ra phải là hoàn toàn ý thức và tự do. Sách Sáng thế khi nói đến người Nam bỏ cha mẹ mình để luyến ái với vợ (St 2, 24) làm rõ sự lựa chọn ý thức và tự do làm sinh ra hôn nhân, làm cho người con trai nên một người chồng, và một người con gái nên vợ. Hiểu thế nào cho cân sự chọn lựa nhau, nếu không có trước mặt một sự thật đầy đủ về nhân vị? Tức là về một hữu thể có lý trí và tự do? Công đồng VaticanII nói đến sự "giống như" Thiên Chúa bằng những từ mà ta không thể thất có từ nào ý nghĩa hơn. Công đồng không thể quy chiếu vào " hình ảnh và sự giống như Thiên Chúa" mà mỗi hữu thể nhận lãnh tự có rồi, mà còn và nhất là quy chiếu " vào sự giống nhau giữa mối hiệp nhất Ba ngôi Thiên Chúa và sự giống nhau của con cái Thiên Chúa, trong chân lý và tình thương" (13).

Kiểu nói đặc biệt nhiều ý nghĩa này kiện chứng trước tiên cái gì xác định căn tính sâu xa của mọi người nam nữ. Căn tính này hệ tại ở khả năng sống trong sự thật và thương yêu, hơn nữa, nó hệ tại ở nhu cầu sự thật và thương yêu, là chiều kích thiết lập đời sống con người. Nhu cầu sự thật và thương yêu mở lối con người về với Thiên Chúa cùng các tạo vật: nó mở con người đối với các người khác, với sự sống chung của " hiệp thông" và đặc biệt với hôn nhân và gia đình. Theo lời Công đồng, sự "hiệp thông "những con người, một nghĩa nào đó, phát xuất từ mầu nhiệm "Chúng ta" của Ba Ngôi, cho nên sự "hiệp thông vợ chồng " cũng gắn bó vào mầu nhiệm này. Gia đình, phát sinh từ tình yêu của người Nam và người Nữ, về căn bản, phát xuất từ mầu nhiệm Thiên Chúa. Ðiều ấy am hợp với yếu tính thâm sâu của người Nam và người Nữ, với phẩm gía bẩm sinh và đích thực của những nhân vị.

Trong hôn nhân, người Nam và người Nữ kết hợp một cách chặt chẽ, đến nỗi theo lời trong sách Sáng thế: họ "nên một xác thể" (St 2, 24). Người Nam người nữ, do sắp đặt thể lý, là hai chủ thể người, mặc dầu cơ thể khác nhau, cùng chia sẻ bằng nhau khả năng sống "trong sự thật và thương yêu". Khả năng này là đặc tính của hữu thể con người như là nhân vị, có một chiều kích vừa thiêng liêng vừa xác thể. Cũng qua thân xác mà người Nam và người Nữ được chuẩn bị để tạo nên một "hiệp thông nhân vị" trong hôn nhân. Khi cứ theo giao ước hôn nhân họ kết hợp nên "một xương thịt" (St 2, 24) thì sự kết hợp của họ phải được hiện thực "trong sự thật và thương yêu", làm sáng tỏ sự trưởng thành của những nhân vị được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, giống như Thiên Chúa.

Gia Ðình nào xuất phát từ đó, nhận được sự vững chắc nội bộ của giao ước giữa đôi bạn, mà Chúa Kitô đã làm thành bí tích. Gia Ðình gặp bản tính cộng đoàn, hay nói đúng hôn nhận được đặc tính "hiệp thông " trong sự hiệp thông căn bản của vợ chồng, nối dài qua con cái. "Anh chị có sẵn sàng đón nhận yêu thương những người con mà Thiên Chúa muốn cho anh chị, và sẵn sàng giáo dục chúng không?" Vị Chủ tế hỏi như thế khi cử hành nghi lễ hôn nhân (14), Câu đáp của đôi vợ chồng diễn tả sự thật thân mật của tình yêu kết hợp họ. Tuy nhiên sự hiệp nhất của họ, thay vì khép kín trên họ, đã mở họ vào đời sống mới, một con người mới. Là Cha mẹ, họ có khả năng trao sự sống cho một hữu thể giống như họ, không những là "thịt của thịt họ, xương của xương họ" (St 2. 23), mà còn là hình ảnh giống Thiên Chúa, tức là một nhân vị.

Khi hỏi: " Anh chị có chuẩn bị.. ?" Giáo hội nhắc cho đôi Tân hôn rằng: họ đứng trước quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa. Họ được gọi làm Cha mẹ, tức là cộng tác với Ðấng tạo thành để ban sự sống. Cộng tác với Thiên Chúa để làm cho nhiều con người mới chào đời, điều ấy có ý nghĩa là góp phần chuyển trao hình ảnh nên giống Thiên Chúa, mà bất kỳ ai do " một phụ nữ " sinh ra, đều phản ánh.
 
Gia phả của một người
 
9. Qua hiệp thông các nhân vị, được thực hiện trong hôn nhân, người Nam và người Nữ lập nên một gia đình. Gắn bó với gia đình là gia phả của mọi người: Gia phả của nhân vị. Tình làm Cha làm Mẹ nơi loài người được ăn sâu vào trong sinh học, và đồng thời nó vượt mức sinh học. Thánh Tông đồ đã "Quỳ gối trước mặt Thiên Chúa, từ nơi Ngài phát sinh mọi quyền phụ tử, trên trời dưới đất", hầu như đặt trước mặt ta cả một thế giới sinh vật từ những hữu thể thiêng liêng trên trời cho đến các hữu thể có xác trên trái đất. Mọi loài đều có mẫu nguyên khởi từ Tình Hiền Phụ của Thiên Chúa, nhưng trong trường hợp con người, chiều kích "vũ trụ" của sự giống như Thiên Chúa chưa đủ để xác định cho cân mối tương quan làm cha làm mẹ. Khi mà từ sự phối hiệp của hai người trong hôn nhân, sinh ra một người mới, thì người ấy cũng mang vào đời một hình ảnh và sự giống như rất đặc biệt với chính Thiên Chúa: trong sinh học về sinh sản đã đăng ký một gia phả con người.

Khi khẳng định hai vợ chồng, khi làm cha mẹ, là cộng tác viên với Thiên Chúa đấng sáng tạo, trong việc thụ thai và sinh ra một con người mới (15), ta không những quy chiếu về những định luật sinh học, ta còn muốn nhấn mạnh hơn rằng, trong việc làm cha làm mẹ thuộc con người, chính Thiên Chúa hiện diện một cách khác với mọi sự sinh đã khác "trên trái đất". quả vậy, chỉ từ Thiên Chúa mới có " hình ảnh", "giống như"này, là đặc tính của con người, như đã xảy ra trong công trình sáng thế, việc sinh sản là tiếp tục sáng tạo (16).

Cho nên, trong việc có thai và sinh ra một người mới, cha mẹ thấy mình ở trước một " mầu nhiệm lớn" (Eph 5, 32). Cũng như cách của cha mẹ mình, con người mới cũng được gọi vào cuộc sống như một nhân vị, được gọi vào đời sống " trong sự thật và thương yêu ". Lời gọi này không chỉ liên quan đến những gì có trong thời gian, mà, trong Thiên Chúa, đó còn là tiếng gọi mở vào vĩnh cửu. Ðó là chiều kích của gia phả con người, mà Chúa Kitô đã mạc khải rõ, bằng cách chiếu toả ánh sáng tin mừng của Ngài trên sự sống và sự chết loài người, do đó cũng trên cả ý nghĩa gia đình con người.

Như Công đồng khẳng định, con người là " tạo vật duy nhất trên trái đất mà Thiên Chúa muốn cho có vì chính nó" (17). Việc sáng tạo con người không chỉ đáp ứng các định luật sinh lý, nó còn trực tiếp đáp lại ý muốn sáng tạo của Thiên Chúa, tức là ý muốn liên quan đến gia phả các con trai con gái trong các gia đình con người. Thiên Chúa "đã muốn có" con người ngay từ đầu, và Thiên Chúa "đang muốn" như thế trong mọi việc thụ thai và sinh ra một người. Thiên Chúa "muốn" con người như hữu thể giống với Ngài, như một nhân vị. Người này, mọi người, được Thiên Chúa dựng nên "cho chính y". Ðiều ấy liên quan đến hết thảy mọi người kể cã những người sinh ra mà bệnh hay mang tật. Trong việc tạo thành nhân vị mỗi người đều có ý muốn của Thiên Chúa, Ngài muốn rằng cùng đích con người, một nghĩa nào đó, là chính mình. Thiên Chúa tạo con người cho con người, bằng cách phó y cho trách nhiệm của gia đình và xã hội. Trước một con người mới, cha mẹ có hoặc phải có ý thức rõ về việc Chúa "muốn" có y "cho chính y".

Kiểu nói tổng hợp này rất phong phú và sâu sắc. Từ giây phút thụ thai, rồi sinh ra, con người mới này được chỉ định biểu lộ đầy đủ nhân tính của mình, "biểu lộ" mình là nhân vị. Ðiều này tuyệt đối gía trị cho mọi người, cả những người bệnh kinh niên, những người bất hạnh. "là người" đó là ơn gọi căn bản: "là người " theo chiều kích hồng ân đã nhận. Tuỳ mức độ "nén bạc" là chính nhân tính, và chỉ sau đó, tuỳ các "nén bạc" khác. Theo nghĩa này, Thiên Chúa muốn từng người cho chính y. Tuy nhiên trong ý định của Chúa, ơn gọi mỗi nhâ vị vượt qua giới hạn thời gian. Ơn gọi ấy tiếp vào ý muốn của Chúa Cha, được Ngôi lời nhập thể mạc khải: Thiên Chúa muốn mở rộng tới con người việc tham dự vào đời sống Thần linh của người. Chúa Kitô đã dạy: " Tôi đến để mọi người được sống và sống sung mãn" (Ga 10, 10).

Vận mệnh cuối cùng của con người lại chẳng không hợp với câu cả quyết rằng Thiên Chúa muốn con người vì chính con người sao? Nếu con người được dựng nên để tham dự sự sống Thần linh, thì thực sự con người có "vì chính mình " không? Ðó là câu hỏi mấu chốt, từ đầu tới cuối rất là quan trọng ở cuộc sống trần gian. Khi định cho con người được tham dự sự sống thần linh, hình như Thiên Chúa tách con người ra khỏi kiếp sống "vì chính con người " (19). Vậy có tương quan nào giữa sự sống nhân vị và việc tham dự đời sống Ba ngôi? Thánh Augustino trả lời bằng những lời thời danh: " Trái Tim con không được an nghỉ cho đến khi nó nghỉ an trong Chúa" (20).

"Trái tim không yên" này, cho thấy không có mâu thuẫn giữa hai mục đích tính; trái lại, có liên hệ, có điều hợp, có thể thống nhất sâu xa. Chính qua gia phả, nhân vị được tạo dựng theo hình ảnh giống như Chúa, bằng việc tham dự sự sống của Ngài, nhân vị ấy hiện hữu "vì chính mình", và tự thực hiện. Nội dung sự thực hiện này là sự sung mãn sự sống của Thiên Chúa, sự sống mà chính Chúa Kitô nói đến (x. Ga 6, 27-40). Ngài đã cứu chúng ta để đưa chúng ta vào sự sống này (xem Mc 10, 45).

Ðôi vợ chồng muốn có con vì chính chúng, họ thấy trong chúng kết quả của tình yêu họ đối với nhau. Họ muốn có con cho gia đình, nhưng hồng ân rất quí (21). Ðây là ước muốn ta hiểu được phần nào. Nhưng trong tình yêu hôn nhân giữa vợ chồng, cũng như tình yêu cha mẹ với con cái, phải được ghi nhận sự thật về con người – sự thật mà Công đồbg đã bày tỏ một cách tổng hợp và chính xác, khẳng định rằng Thiên Chúa "muốn có con người vì con người". Ðể được như thế, ý muốn của cha mẹ phải hài hoà với ý muốn của Thiên Chúa: theo nghĩa này, họ phải muốn có một thụ tạo nhân linh như Chúa muốn: "Cho chính thụ tạo ấy". Ý con người, luôn luôn và không thể tránh, phải tuân phục luật thời gian và suy thoái. Trái lại ý Thiên Chúa là vĩnh cửu. "Trước kghi tạo thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi;trước khi ngươi ra khỏi lòng mẹ, Ta đã thánh hiến ngươi" Ta đọc câu ấy trong sách ngôn sứ Jeremia 1, 15. Cho nên gia phả con người, trước tiên được nối vào tính vĩnh cửu của Thiên Chúa, rồi sau mới nối vào tình cha mẹ con người được hiện thực trong thời gian. Vào lúc thụ thai, con người được điều hợp về vĩnh cửu của Thiên Chúa.
 
Thiện ích chung của hôn nhân và gia đình
 
10. Sự ưng thuận trong hôn nhân xác định và củng cố thiện ích nó vẫn chung cho hôn nhân và gia đình. "Tôi nhận em làm vợ, (Tôi nhận anh làm chồng), và hứa chung thuỷ với em (với anh), khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, lúc bệnh nạn cũng như khi mạnh khoẻ, để yêu mến và tôn trọng em (anh) suốt mọi ngày trong đời tôi" (22). Hôn nhân là hiệp thông duy nhất những nhân vị. Ðược xây dựng trên hiệp thông, gia đình được gọi để thành cộng đoàn các nhân vị. Ðó làcam kết mà đôi tân hôn đọc "trước mặt Thiên Chúa và Hội thánh". Như Chủ tế nhắc lại khi họ trao đổi sự ưng thuận (23). Những người dự lễ cưới làm chứng lời cam kết ấy; trong họ, một nghĩa nào đó, chính là Giáo hội và Xã hội, môi trường sống của gia đình mới.

Những lời ưng thuận hôn nhân xác định những gì tạo nên thiện ích chung của lứa đôi và gia đình. Trước tiên, thiện ích chung của lứa đôi: Tình yêu, chung thuỷ, tôn trọng, đoàn kết mãi tới khi chết, "mọi ngày trong đời". Thiện ích của cả hai, cũng là thiện ích của mỗi người, sau sẽ nên thiện ích của con cái. Thiện ích chung, theo bản tính nó, vừa kết hiệp các nhân vị, bảo đảm điều thiện đúng của mỗi người. Nếu Giáo hội, cũng như Quốc gia, nhận lời ưng thuận của vợ chồng theo những lời trích dẫn trên, Giáo hội làm như thế vì "đã ghi trong lòng họ" (Rm 2, 15). Chính vợ chồng trao cho nhau lời ưng thụân hôn nhân bằng lời thề, vì khẳng định trước mặt Thiên Chúa sự thật của ưng thuận ấy. Là người được rửa tội, trong Giáo hội, họ là thừa tác viên của Bí tích hôn nhân. Thánh Phaolo dạy rằng cam kết hỗ tương của họ là "mầu nhiệm trọng đại" (Eph 5, 32).

Những lời ưng thuận biểu lộ yếu tố tạo nên thiện ích chung của vợ chồng và chỉ rõ đâu là điều phải là thiện ích chung của gia đình và tương lai. để làm rõ điều ấy, Giáo hội hỏi họ đã sẳn sàng đón nhận và giáo dục theo Kitô giáo những người con mà Thiên Chúa sẽ ban cho họ chăng. Câu hỏi này qui về thiện ích chung của hạt nhân gia đình tương lai, tính đến cả gia phả các nhân vị, đã ghi trong qui ước hôn nhân và gia đình. Câu hỏi về con cái và giáo dục chúng gắn liền với sự ưng thuận hôn nhân, với lời thề yêu thương tôn trọng vợ chồng, chung thuỷ tới chết, việc đón nhận và giáo dục con cái, là hai trong những mục đích chính của gia đình, tuỳ thuộc ở lời cung cách nói lời cam kết.

Tình làm cha làm mẹ đều diễn tả nhiệm vụ có tính chất không những thể lý, mà còn tinh thần. vì gia phả nhân vị có khởi thuỷ đời đời trong Thiên Chúa và sẽ phải dẫn tới Ngài, qua tình phụ mẫu ấy.

Năm của gia đình, sẽ là năm cầu nguyện đặc biệt về phía các gia đình, phải làm cho từng ý thức được các điều trên, một cách mới mẻ sâu sắc. Biết bao chủ đề Kinh thánh có thể dưỡng nuôi việc cầu nguyện này, ta nối kết thêm ý chỉ riêng của đôi bạn – cha mẹ, cũng như ý chỉ của con cái cháu chắt. Qua gia phả các nhân vị việc hiệp thông vợ chồng trở thành hiệp thông các thế hệ. Sự kết hiệp theo bí tích của hai người, được đóng ấn trong giao ước ký kết trước Thiên Chúa, tồi tại và được củng cố trong các thế hệ kế tục. Sự kết hiệp này phải trở nên hiệp nhất cầu nguyện. Nhưng để nó được toả ra một cách có ý nghĩa trong năm của gia đình, cần sao cho việc cầu nguyện nên thói quen ăn sâu vào đời sống hàng ngày của từng gia đình. Cầu nguyện là tạ ơn, ngợi khen Thiên Chúa, xin Ngài tha thứ, là khẩn xin là kêu cầu. Dưới mỗi dạng cầu nguyện của gia đình có nhiều điều phải thân thưa với Chúa. Cầu nguyện này cũng có nhiều điều phải nói với con người, bắt đầu thông hiểu nhau giữa những người cùng dây liên kết gia đình.

"Con người là chi mà Chúa phải nghĩ tới"? (Tv 8, 5) Tác giả thánh vịnh hỏi như thế. Cầu nguyện là nơi mà người ta nhớ đến Thiên Chúa Sáng Tạo cũng là Cha, một cách đơn giản nhất. Nhưng không phải như thế là con người đã nhớ đến Thiên Chúa, nhưng đúng hơn Thiên Chúa đã nhớ đến con người. Chính vì vậy mà cầu nguyện trong cộng đoàn gia đình có thể nên nơi nhớ chung đến nhau, vì gia đình là cộng đoàn các thế hệ. Mọi người phải hiện diện cầu nguyện: những người sống những người chết, những người sẽ chào đời nữa. Phải làm sao cho trong gia đình người ta cầu nguyện cho từng người theo thiện ích gia đình đối với họ và thiện ích mà họ mang về cho gia đình. Cầu nguyện càng củng cố thiện ích này, chính là thiện ích chung gia đình. Hơn thế cầu nguyện là sinh ra thiện hảo, một cách mới mãi. Trong cầu nguyện gia đình thấy mình như "chúng ta" đầu tiên, trong đó mỗi người là "tôi", là "anh", mỗi người đối xứng với kẻ khác: chồng hay vợ, cha hay mẹ, con trai hay con gái, anh em hay chị em, ông bà hay cháu chắt.

Những gia đình mà tôi gửi lá thư này có như thế không? Quả có nhiều gia đình như thế, nhưng trong thời ta đang sống đây, xuất hiện xu hướng hạn hẹp nhiều gia đình ở hai thế hệ. Cái đó là do chiều kích thiếu thốn nhà cửa để xử dụng, nhất là trong những thành phố lớn. Nhưng không hiếm, việc ấy là người ta xác tín việc ở chung nhiều thế hệ sinh ra ngăn trở cho việc thân mật và làm cho cuộc sống khó thêm. Nhưng đây chẳng phải là nhược điểm sao? Trong các gia đình hôm nay, ta thấy ít nếp sống nhân bản. Chỉ còn có ít người để cùng tạo ra và chia sẻ thiện ích chung; tuy nhiên theo bản tính thiện hảo yêu cầu được tạo ra và chia sẻ với người khác, "bonum est diffusivum sui" (thiện hảo có xu hướng tự thông ban) (24). Thiện hảo càng chung nó cũng càng riêng: của tôi, của anh, của chúng ta. Ðó là logich nội tại trong cuộc sống thiện hảo, chân thật và yêu thương. Nếu con người biết đón nhận và theo logich này, cuộc sống của mình thực sự nên một "trao ban vô vị lợi".
 
Trao ban chính mình cách vô vị lợi
 
11. Khi khẳng định rằng con người là tạo vật duy nhất trên đời được Thiên Chúa muốn dựng nên cho chính con người, công đồng thêm ngay rằng con người "chỉ có thể tìm lại được mình bằng trao ban chính mình cách vô vị lợi" (25). Ðiều này có thể như mâu thuẫn, nhưng không thế đâu. Ðây là điều nghịch ý quan trọng lạ lùng trong kiếp làm người; một cuộc sống được gọi để phục vụ chân lý trong tình thương. Tình yêu đưa con người tới chỗ hiện thực chính mình nhờ sự trao ban vô vị lợi chính mình. Yêu có nghĩa là cho và nhận điều mình không thể sắm hay bán, mà chỉ cho một cách tự do, thoả thuận với nhau.

Trao ban con người, theo bản tính đòi phải bền lâu và và không trừu lại. Tính bất khả phân ly của hôn nhân phát xuất trước tiên từ yếu tính sự trao ban: trao người cho người. Trong việc trao thân cho nhau, biểu lộ đặc tính phu thê trong tình yêu. Trong ưng thuận hôn nhân, hai người đính hôn tự xưng tên mình: "Tôi … tôi nhận … làm vợ (làm chồng) và hứa trung thành với em (anh) … mọi ngày trong đời tôi. " Một trao ban như thế nối buộc còn mạnh hơn, sâu xa hơn nhiều, hơn tất cả những gì có thể "sắm" cánh này cách khác, với giá này giá khác chẳng kỳ. Quỳ gối trước mặt Chúa Cha, từ Ngài phát sinh mọi tình phụ tử và mẫu tử, các cha mẹ tương lai ý thức mình "được cứu chuộc". Quả vậy, mình được Chúa sắm với giá cao, giá trao ban vô vị lợi nhất, là Máu Chúa Kitô, mà họ tham dự qua bí tích. Hoàn thành phụng vụ trong lễ thành hôn là Thánh Thể-hy lễ một "thân thể đã cho đi" và "máu được đổ ra" đã như được biểu lộ trong lời ưng thuận của đôi tân hôn.

Trong hôn nhân, khi người nam và người nữ trao thân và nhận nhau trong một "xác thể" thì lô-gích của sự trao ban vô vị lợi đi vào đời sống của họ. không có lô-gích ấy, hôn nhân sẽ trống rỗng trong khi sự hiệp thông các con người, được xây dựng theo lô-gích này, trở thành hiệp thông của cha mẹ, khi đôi bạn truyền sinh cho con, một "tha ngã" mới được đăng ký vào qũy đạo của "chúng ta" một người mà họ sẽ gọi bằng tên mới: "con trai chúng ta, con gái chúng ta…". "Tôi đã được một người, nhờ Ðức Chúa" (St 4, 1), cụ bà Evà, người nữ đầu tiên trong lịch sử đã nói như vậy: một hữu thể nhân linh, được chờ đợi trong chín tháng, rồi "được hiện ra" cho cha mẹ, anh chị em nó. Quá trình thụ thai và phát triển trong dạ mẹ, và đỡ đẻ, sinh ra, tất cả là để tạo ra như một không gian thích ứng, để tạo vật mới này được tỏ ra như "hồng ân" trao ban, vì từ đầu là trao ban, Bé thơ yếu đuối, không bảo vệ, tuỳ thuộc cha mẹ mọi sự và hoàn toàn phó thác cho cha mẹ săn sóc, sẽ có thể được chỉ định khác đi chăng? Bé thơ trao vào tay ba má do chính việc em chào đời. Cuộc sống của em là hồng ân, hồng ân đầu tiên Ðấng Tạo Hoá ban cho thụ tạo.

Trong bé sơ sinh, hiện thực thiện ích chung của gia đình. Cũng như thiện ích chung của hai vợ chồng, chỉ hoàn thành trong tình yêu phu thê, sẵn sàng trao và nhận sự sống mới, thiện ích chung của gia đình được thực hiện qua chính tình yêu phu thê được cụ thể hoá nơi bé sơ sinh. Trong gia phả của con người đã ghi gia phả gia đình, đưa vào sổ Rửa tội hằng lưu truyền mãi, dù việc vào sổ chỉ là hậu quả xã hội của việc "một con người đã vào đời" (Ga 16, 21).

Nhưng có thật là con người mới này là trao ban cho cha mẹ? là hồng ân cho xã hội? Cứ bề ngoài thì không có gì chỉ điều ấy. Việc một người sinh ra đôi khi có vẻ như một dữ kiện thống kê đơn giản thôi, cũng như mọi dữ kiện khác trong thống kê dân số. Quả thật một bé sinh ra, đối với cha mẹ em, có nghĩa là nhiều vất vả sẽ tới, nhiều gánh nặng kinh tế, nhiều bó buộc thực tiễn: biết bao lý do khơi lên trong họ cơn cám dỗ đừng muốn sinh đứa nữa (26). Trong một số môi trường xã hội văn hoá, cơn cám dỗ ấy càng mạnh. Ðứa bé chẳng là hồng ân sao? Nó chỉ đến để lấy chứ đâu cho? Ðó là mấy câu hỏi gây e ngại, mà người ngày nay khó giải thoát khỏi. Ðứa con đến để có chỗ đứng, trong khi trên thế giới hình như không gian càng ít đi. Nhưng có thật nó không đưa gì cho gia đình và xã hội chăng? Em chẳng là "yếu tố" của thiện hảo chung, mà không có nó thì các cộng đoàn xã hội con người sẽ tan rã và có nguy cơ chết sao? Chối điều ấy thế nào được? Em bé trao ban em cho anh chị nó cho cha mẹ, cho cả gia đình. Ðời sống em trở nên ân huệ cho những tác giả sự sống em, họ không thể không cảm thấy sự hiện diện của con mình, việc nó tham gia cuộc sống của mình, việc nó đóng góp cho thiện ích chung, cho thiện ích cộng đồng gia đình. đó là chân lý vẫn hiển nhiên trong vẻ đơn sơ và sâu xa của nó, mặc dầu sự phức tạp hay tật bệnh có thể có của cấu trúc tâm lý một số người. Thiện ích chung của toàn xã hội cũng ở trong con người, mà con người như ta đã nhắc đến là "con đường của Giáo Hội" (27). Trước tiên con người là "vinh quang" của Thiên Chúa: "Gloria dei, vivens homo" (vinh quang của Thiên Chúa là con người đang sống), đúng như kiểu nói thời danh của thánh Irênêô như vậy (28). Cũng có thể dịch là: "vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống. Ở đây có thể nói ta đứng trước một định nghĩa cao cả về con người: vinh quang của Thiên Chúa là thiện ích của mọi điều hiện hữu, đó là thiện ích chung của loài người.

Phải, con người là thiện hảo chung: thiện hảo chung của gia đình và nhân loại, của nhiều loại nhóm và nhiều những cấu trúc xã hội. Tuy nhiên phải phân biệt cho có ý nghĩa về mức độ, về sắc thái: ví dụ con người là thiện hảo chung của quốc gia mà họ thuộc về hay của nhà nước mà họ là công dân; nhưng con người là thiện ích chung một cách cụ thể và tuyệt đối duy nhất của gia đình họ; không những như thế như một cá nhân là thành phần của đông đảo con người, mà còn là "người này, người kia". Thiên Chúa Ðấng Tạo thành đã gọi họ vào cuộc sống "cho chính họ" và khi họ chào đời, con người bắt đầu cuộc "phiêu lưu lớn" trong gia đình, cuộc phiêu lưu đời người, "Người này", dù sao, cũng có quyền khẳng định mình chiếu theo phẩm giá mình. Chính phẩm giá này phải xác định chỗ đứng của người ấy giữa mọi người, và trước hết, là trong gia đình. Bởi vì, hơn mọi thực tại con người khác, gia đình là môi trường trong đó con người có thể hiện hữu "cho chính mình" bằng cách trao tặng mình vô vị lợi. Vì thế, gia đình vẫn là định chế xã hội mà người ta không thể, cũng như không được thay thế: gia đình là "đền sự sống"

Việc một người sinh ra, "một hữu thể nhân linh chào đời" (x. Ga 16, 21) lập lên một dấu chỉ "vượt qua". Chính Chúa Giêsu nói điều ấy cùng các môn đệ-theo thánh Ký Gioan-trước khi Ngài chịu khổ hình và chịu chết, so sánh nỗi buồn do việc Ngài ra đi, với cái đau đớn của một phụ nữ sinh con, "Người phụ nữ sắp sinh con thì buồn (có nghĩa là đau đớn) vì giờ nó đã đến; nhưng khi đã cho đứa con chào đời, thì không nhớ đến đau đớn nữa, vì niềm vui một người đã chào đời" (Ga 16, 21) "giờ" của Chúa Kitô chịu chết (x. Ga 13, 1) ở đây sánh với "giờ" của người phụ nữ trong cơn đau đớn sinh con, việc sinh ra một người mới sánh cùng sự chiến thắng của sự sống trên sự chết nhờ việc Chúa Giêsu Phục Sinh. Việc đặt gần những sự kiện ấy khiến ta suy nghĩ khác nhau. Cũng như phục sinh của Chúa Kitô là biểu lộ sự sống bên kia ngưỡng cửa sự chết, cũng thế việc sinh ra một em bé cũng là biểu lộ sự sống, hằng được Chúa Kitô chỉ định đi tới "sung mãn sự sống" vốn ở nơi Thiên Chúa. "Ta đến để người ta được sự sống và sống dồi dào" (Ga 10, 10). Thế là đã mặc khải trong giá trị sâu xa của nó, cái ý nghĩa thật của câu nói của Thánh Irenêô: "Gloria Dei, vivens homo".

Ðó là chân lý từ Tin Mừng về sự hy sinh mình; không có hy sinh con người không thể "gặp được mình cách đầy đủ", nó cho ta hiểu "sự hiến thân vô vị lợi" đã ăn sâu vào việc hiến thân của Thiên Chúa như thế nào, Ðấng Thiên Chúa tạo thành và Cứu Ðộ trong "ơn Chúa Thánh Thần" mà vị chủ tế cầu xin tuôn tràn trên đôi tân hôn trong lễ cưới. Không có việc "tuôn tràn" này, thì quả là khó hiểu tất cả những điều ấy, và khó thực hiện nó như một ơn gọi của con người. Nhưng biết bao người hiểu điều ấy! Nhiều người nam nữ đón nhận chân lý này và đã thấy rằng, chỉ ở trong chân lý này, họ mới gặp được "sự thật và sự sống" (Ga 14, 6). Không có chân lý này, đời sống vợ chồng và gia đình không thể đạt ý nghĩa tràn đầy nhân bản.

Vì thế Giáo Hội không bao giờ ngại dạy chân lý ấy và làm chứng cho chân lý ấy. Vẫn thử tìm hiểu như người mẹ nhiều hoàn cảnh phức tạp của cuộc khủng hoảng mà các gia đình đang liên lụy, cũng như hiểu sự yếu đuối về luân lý của mọi người, Giáo Hội xác tín mình phải tuyệt đối trung thành với chân lý của tình yêu con người; chẳng vậy, Giáo Hội sẽ tự phản bội mình. Rời xa chân lý cứu độ này là như "nhắm mắt lòng mình" (Eph 1, 18), mà trái lại mắt phải mở đón nhận ánh sáng Tin Mừng đang chiếu toả trên các biến đổi của nhân loại (x. 2Tm 1, 10). Ý thức được sự hiến thân vô vị lợi, qua đó con người "gặp lại mình", cần phải được nghiêm túc đổi mới và hằng bảo đảm, trước nhiều chống đối mà Giáo Hội phải gặp từ phía những người theo cái văn minh sai lầm về sự tiến bộ (30). Gia đình luôn biểu lộ chiều kích mới của thiện ích cho con người, và vì thế gia đình tạo ra trách nhiệm mới. Ðây là trách nhiệm để lo thiện ích chung đặc biệt, trong đó có thiện ích của con người, thiện ích của mọi thành phần của cộng đoàn gia đình. Quả vậy, đây là thiện ích "khó khăn" ("bonum ardnum"), nhưng cũng là thiện ích lạ lùng.

Tình làm cha làm mẹ có trách nhiệm
 
12. Trong khi khai triển lá thư này gưỉ các Gia đình, đã đến lúc phải nêu lên hai câu hỏi gắn liền nhau. Câu hỏi tổng quát hơn, liên quan đến văn minh tình thương, câu hỏi sau đặc thù hơn, nói về tính làm cha làm mẹ có trách nhiệm.

Ta đã nói rằng hôn nhân kéo theo một trách nhiệm riêng đối với thiện ích chung, trước tiên là thiện ích của đôi vợ chồng, rồi thiện ích của gia đình. Thiện ích do con người tạo lập, qua giá trị của nhân vị, và qua những gì đưa lại tầm cứ cho phẩm giá con người. Con người mang cho mình phẩm giá ấy, trong hết các chế độ xã hội, kinh tế, chính trị. Tuy nhiên trong khuôn khổ hôn nhân và gia đình, trách nhiệm này "cam kết" hơn nữa vì nhiều lý do. Không phải không có lý mà Hiến chế mục vụ "Gaudium et Spes" nói đến "việc làm nổi giá trị phẩm giá hôn nhân và gia đình". công đồng coi việc "làm nổi giá trị" như một nhiệm vụ của Giáo hội và của cả Quốc gia; nhưng trong mọi nền văn hoá, việc ấy vẫn trước tiên là bổn phận của những người được kết hiệp trong hôn nhân họ đang tạo lập một gia đình nhất định, "tính làm cha làm mẹ có trách nhiệm" chỉ hành động cụ thể thi hành bổn phận ấy, một bổn phận ngày nay có nhiều đặc điểm mới.

Ðặc biệt, "tình làm cha làm mẹ có trách nhiệm" trực tiếp quy về lúc người nam người nữ kết hợp "nên một xương thịt", có thể trở thành cha mẹ. Ðấy là giây phút phong phú và đặc biệt có ý nghĩa đối với những quan hệ liên nhân vị, cũng như với việc phục vụ mà họ dành cho sự sống: họ có thể nên cha mẹ- cha và mẹ- bằng cách truyền sự sống cho một hữu thể nhân linh mới. Cả hai chiều kích của sự phối hợp vợ chồng - phối hợp và truyền sinh - không thể bị ngăn cách nhân tạo, mà không làm sai lạc chân lý thân mật của hành vi phu thê ấy (31).

Ðó là giáo huấn thường hằng của Giáo hội, "các dấu chỉ thời đại" mà ngày nay ta đang chứng kiến, cho ta thêm nhiều lý do mới để nhắc lại điều ấy tha thiết hơn. Rất chú ý đến những nhu cầu mục vụ của thời Ngài, Thánh Phaolô rõ ràng và mạnh mẽ yêu cầu " phải nhấn mạnh lúc thuận cũng như lúc nghịch" (x. 2Tm4, 2), đừng lo sợ bởi việc "người ta không còn ủng hộ giáo lý tinh tuyền" (x. 2Tm4, 3). Những lời Ngài rất thân quen với những ai hiểu sâu xa những gì đang xảy ra ở thời ta, đang chờ nơi Giáo hội không những đừng bỏ "giáo lý tinh tuyền", mà phải loan truyền cho mạnh mẽ, mới mẻ, tìm trong những "dấu chỉ thời đại" nảy những lý do quan phòng để càng đào sâu giáo lý hơn.

Nhiều những lý do ấy có trong các lãnh vực khoa học, chúng phát xuất từ thân cây chung là nhân loại học, đang được nghiên cứu chuyên ngành, như sinh học, tâm lý học, xã hội học và các chi nhánh của chúng. Một cách nào đó chúng xoay quanh y học, vốn là Khoa học và nghệ thuật (ars medica) để phục vụ sự sống và sức khoẻ con người. Nhưng các lý do gợi lên ở đây, phát xuất nhất là từ kinh nghiệm con người, vốn là đa dạng và một nghĩa nào đó đi trước và đi sau cả khoa học.

Ðôi vợ chồng bằng kinh nghiệm riêng, học biết tình làm cha làm mẹ có trách nhiệm, nghĩa là gì; họ cũng học được điều ấy nhờ kinh nghiệm của những đôi vợ chồng khác đang sống trong những hoàn cảnh tương tự, và như vậy họ thêm mở rộng về khoa học hơn. Ta có thể nói rằng những nhà "bác học" tiếp nhận cách nào đó việc giáo huấn của các "vợ chồng", để rồi họ có khả năng giáo huấn các vợ chồng một cách có thẩm quyền hơn về ý nghĩa việc truyền sinh có trách nhiệm và về những phương cách thi hành việc ấy.

Chủ đề này được bàn rộng rãi trong các văn kiện Công đồng, trong thông điệp "Humanae Vitae", trong các "Ðề nghị" của Thượng Hội đồng Giám mục năm 1980, trong Tông huấn "Familiaris Consortio", và trong các can thiệp cùng loại ấy, cho đến giáo huấn "Donum Vitae" của Bộ Giáo lý Ðức tin. Giáo hội dạy sự thật luân lývề tình làm cha làm mẹ có trách nhiệm, bảo vệ chân lý ấy chống lại những quan niệm và những xu hướngsai lầm lan tràn ngày nay. Tại sao Giáo hội làm thế? Phải chăng Giáo hội không nắm bắt quan điểm của những người, trong phạm vi này, đang khuyến cáo làm "những việc tuỳ tiện", và họ tìm cách khuất phục Giáo hội, bằng những áp lực vô lối, mà có khi bằng đe doạ nữa? Quả vậy, người ta trách cứ Huấn quyền Giáo hội là lỗi thời, và khép kín trước những yêu cầu của tinh thần thời đại mới, là theo hành động có hại cho loài người, và hơn nữa, hại cho cả Giáo Hội. Người ta bảo, cứ giữ lập trường ấy, cuối cùng Giáo Hội sẽ mất tính quần chúng và các tín hữu sẽ xa cách Giáo Hội.

Nhưng làm sao chủ trương được Giáo Hội, và đặc biệt hàng Giám mục hiệp thông với Giáo hoàng, lại không cảm xúc các vấn đề trầm trọng hiện nay? Chính Ðức Phaolô VI thấy được những vấn đề sinh tử đã thúc đẩy Ngài công bố thông điệp "Humanae Vitae". Cơ sở của giáo huấn Giáo Hội, liên quan đến tình làm cha làm mẹ có trách nhiệm, quả thật rất rộng lớn và vững chắc, không thể có hơn. Công đồng trình bầy điều ấy trước tiên, trong giáo huấn về con người, khi công đồng khẳng định rằng "con người là tạo vật duy nhất trên trái đất, được Thiên Chúa muốn cho chính con người" và "chỉ có thể gặp lại mình cách đầy đủ qua sự trao ban vô vị lợi chính mình", (32); và như vậy bởi vì người được dựng nên theo hình ảnh giống như Thiên Chúa, và được cứu chuộc bởi Con duy nhất của Chúa Cha, đã xuống thế làm người vì ta và cứu độ ta.

Công đồng Vatican II, đặc biệt chú ý tới vấn đề con người và ơn gọi của con người, tuyên bố rằng sự kết hợp phu thê "una caro" (một xương thịt) như kiểu nói trong Kinh thánh, không thể trọn vẹn hiểu và giải thích được, nếu không nhờ đến những giá trị của "nhân vị" và "trao ban". Mọi người nam nữ thực hiện mình cách đầy đủ bằng cách trao ban vô vị lợi chính mình, và đối với vợ chồng, lúc kết hợp phu thê, tạo nên một kinh nghiệm hoàn toàn đặc thù. Chính lúc ấy, người nam người nữ, trong sự thật của nam tính và nữ tính của họ, đã trở thành trao ban cho nhau. Cả cuộc đời trong hôn nhân, là một trao ban; nhưng điều ấy còn hiển nhiên hơn, khi vợ chồng trao thân cho nhau trong yêu thương, thực hiện được cuộc gặp gỡ làm hai người nên một xác thể" (St 2, 24)

Lúc ấy họ sống giây phút trách nhiệm riêng, nhất là do việc cơ quan truyền sinh của hành vi phu thê. Ðôi vợ chồng có thể trở thành cha thành mẹ vào lúc đó, mang theo quá trình của một đời người mới, nó tiếp tục phát triển trong dạ mẹ. Nếu là người phụ nữ trước tiên nhận thấy mình đã làm mẹ, thì sau đó người đàn ông mà chị ấy đã kết hợp nên "một xương thịt", cũng nhận ra điều ấy, theo lời của chị, rằng mình đã thành cha. Cả hai có trách nhiệm làm cha làm mẹ trong tiềm thể, và sau đó là hữu–hiệu thực. Người đàn ông không thể không biết, hay không chấp nhận, cái kết quả của một quyết định đã là của mình. Ông không thể lẩn tránh bằng những lời, như "tôi không biết " ‘‘tôi không muốn" "chính em muốn đó". Dù sao, sự kết hợp phu thê cũng bao hàm trách nhiệm của người nam và người nữ, trách nhiệm trong tiềm thể sẽ trở nên hữu hiệu khi các hoàn cảnh bắt buộc thế. Ðiều ấy càng giá trị cho người đàn ông, khi mình là người cam kết về quá trình sinh sản, nhưng vẫn cách ly về mặt sinh học, vì nó phát triển trong người nữ. Làm sao người nam không coi việc ấy là quan trọng được? Cho nên cả người nam lẫn người nữ, cả hai phải lãnh trách nhiệm với nhau, đối với nhau và với người khác, cái trách nhiệm về đời sống mới mà họ khơi lên.

Ðó là một kết luận được chính các nhà khoa học nhân văn chấp nhận. Tuy nhiên nên đi sâu vào và phân tích ý nghĩa của hành vi phu thê theo ánh sáng các giá trị đã nhắc tới về "nhân vị" và "trao ban". Giáo hội làm như thế, qua giáo huấn thường hằng, đặc biệt là giáo huấn của công đồng Vaticanô II.

Và giây phút của hành vi phu thê, người nam người nữ được mời khẳng định, một cách trách nhiệm, việc trao nhau mà họ đã làm khi giao ước kết hôn. Mà lôgích của việc trao gởi nhau hoàn toàn, gồm việc mở rộng trong tiềm năng cho sinh sản: hôn nhân được gọi để hiện thực đầy đủ hơn nữa trong gia đình. Quả thực, việc người nam người nữ trao cho nhau không chỉ có mục đích duy nhất là sinh ra một người con, vì đây còn là hiệp thông tình yêu và sự sống. phải luôn luôn gìn giữ sự thật thâm sâu của việc trao ban này, thâm sâu ở đây không đồng nghĩa với "chủ quan". Mà có nghĩa là sự hài hoà căn bản với sự thật khách quan của người nam người nữ tự trao gửi cho nhau, con người không bao giờ có thể được coi như phương tiện để đạt đích, mà nhất là không bao giờ được coi như nguồn hưởng thụ. Chỉ như thế, hành vi ấy mới đáp ứng cho phẩm giá chân chính của nhân vị. Khi kết luận suy nghĩ về chủ đề quan trọng và tế nhị này, tôi muốn nói với các bạn – Trước hết là những đôi vợ chồng, sau là đối với những ai giúp các bạn hiểu và thực thi giáo huấn của Giáo Hội về hôn nhân, về tình làm mẹ làm cha có trách nhiệm – tôi muốn nói với các bạn lời khích lệ đặc biệt. Tôi nghĩ đến các vị mục tử, nhiều những bác học, thần học gia, triết gia, văn sĩ, các nhà quảng cáo, không khuất phục chủ thuyết thủ cựu văn hoá chủ đạo và can đảm sẵn sàng "đi ngược dòng". Lời khích lệ này cũng gửi đến nhóm chuyên viên, bác sĩ, nhà giáo dục, những tông đồ giáo dân thực sự, đã từng đề cao phẩm giá hôn nhân và gia đình, như một nhiệm vụ quan trọng trong đời họ. Nhân danh Giáo Hội, tôi xin cảm ơn tất cả. Không có họ, thì linh mục, giám mục và cả người kế vị Thánh Phêrô sẽ có thể làm được gì? Từ những năm đầu chịu chức linh mục, khởi từ khi tôi bắt đầu ngồi toà giải tội, để chia sẻ những băn khoăn, lo sợ và hy vọng của nhiều đôi vợ chồng, tôi càng ngày càng xác tín điều ấy: tôi đã gặp những ca nổi loạn hay từ chối, nhưng cũng gặp biết bao người có trách nhiệm và quảng đại một cách rõ ràng. Trong khi tôi viết lá thư này, các đôi vợ chông ấy hiện diện trong tôi, tôi quý mến họ và cầu nguyện cho họ.
 
Hai nền văn minh
 
13. Các gia đình thân mến ! Vấn đề làm cha làm mẹ có trách nhiệm được ghi sẵn trong toàn bộ vấn đề "văn minh tình thương" mà bây giờ tôi muốn nói với các bạn. Từ những điều đã nói trên đây, rõ ràng kết quả là gia đình ở nền tảng của điều mà Ðức Phaolô VI gọi là "văn minh tình thương" (33) một thành ngữ từ đó đã đi vào giáo huấn của Giáo Hội và đã trở nên quen thuộc. Ngày nay khó mà gợi lên sự can thiệp của Giáo Hội, hay trên Giáo Hội, mà không nhắc tới văn minh tình thương, thành ngữ ấy liên kết với truyền thống "Giáo Hội tại gia" trong Kitô giáo thời sơ khai, nhưng cũng đích thực tương quan với thời đại hiện nay. Theo nguyên tự, từ "văn minh" (civilisatio) do từ "công dân" (civis) và nhấn mạnh chiều kích chính trị của mọi cuộc đời cá nhân. Ý nghĩa sâu xa của civilisatio không chỉ có tính chính trị mà nó còn có nghĩa "nhân bản". Văn minh thuộc về lịch sử con người, vì nó tương ứng cùng những nhu cầu thiêng liêng và luân lý, được dựng nên theo hình ảnh giống như Thiên Chúa, con người nhận thế giới từ tay Ðấng Tạo Hoá với sứ mệnh khuôn đúc thế giới theo hình ảnh giống như mình. Sự hoàn thành nhiệm vụ này làm phát sinh sự "văn minh", nó cũng chính là "nhân bản hoá thế giới".

Cho nên, một cách nào đó, văn minh đồng nghĩa với văn hoá (cultura) – Do đó ta cũng có thể nói "văn hoá tình thương", tuy vẫn nên dùng thành ngữ đã trở thành thân quen – theo nghĩa hiện nay của thành ngữ này, văn minh tình thương cảm hứng từ một đoạn trong hiến chế của công đồng Gaudium et spes: "Chúa Kitô tỏ bày đầy đủ con người cho chính con người và khám phá cho họ tính cao vời ơn gọi của họ" (34). Cho nên ta có thể nói văn minh tình thương được phát huy từ mặc khải của Thiên Chúa, Ngài là "tình yêu" như thánh Gioan nói (Ga 4, 8-16) và văn minh ấy được thánh Phaolô diễn tả rất đúng trong Ca vịnh Ðức ái, ở thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô (13, 1-13). Văn minh này gắn bó thân mật với "tình yêu được tuôn tràn trong lòng ta, nhờ Thánh Thần được trao ban cho ta" (Rm 5, 5) văn minh này phát triển nhờ văn hoá thường có mà, một cách rất gợi ý, dụ ngôn trong Tin mừng "cây nho và ngành nho" đã nói tới: "Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là chủ vườn nho. Ngành nho nào trong Thầy mà không sinh trái, Ngài sẽ cắt nó đi; còn ngành nào sinh trái Ngài sẽ tỉa, để nó mang nhiều trái hơn" (Ga 15, 1-2).

Theo ánh sáng các bản văn Tân Ước và nhiều bản văn khác, có thể hiểu điều mà ta hiểu là "Văn minh tình thương" và hiểu tại sao gia đình được gắn một cách hữu cơ vào văn minh này. Nếu "con đường của Giáo Hội", trước tiên là gia đình, thì phải nói thêm rằng văn minh tình thương cũng là "con đường của Giáo Hội" đang tiến bước trên thế giới và kêu gọi các gia đình và mọi định chế xã hội, quốc gia và quốc tế, đi vào con đường này, chính xác cho các gia đình và qua các gia đình. Quả vậy gia đình tuỳ thuộc, vì nhiều lý do, vào văn minh tình thương, trong đó gia đình gặp được lẽ sống của hiện hữu như là gia đình. Ðồng thời gia đình là trung tâm, là trái tim của văn minh tình thương.

Tuy nhiên không có tình yêu chân thực mà không ý thức rằng "Thiên Chúa là Tình yêu", và con người là tạo vật duy nhất trên địa cầu, được Thiên Chúa gọi vào hiện hữu "cho chính con người". Ðược tạo dựng theo hình ảnh giống như Thiên Chúa, con người chỉ có thể "gặp được mình" cách đầy đủ bằng trao ban vô vị lợi chính mình. Không quan niệm như thế về con người, về nhân vị và "sự hiệp thông các nhân vị" ở trong gia đình, thì không thể có văn minh tình thương: đối lại, không có văn minh tình thương, quan niệm ấy về nhân vị và hiệp thông các nhân vị cũng không thể có. Gia đình tạo lập "tế bào" căn bản của xã hội. Nhưng người ta cần có Chúa Kitô – là "cây nho" mà "các ngành" nhận được nhựa sống – để cho tế-bào ấy khỏi bị đe doạ từ một thứ bật rễ văn hoá có thể xảy ra từ trong cũng như từ ngoài. Quả vậy nếu có một "văn minh tình thương" mặt này, thì mặt kia cũng có thể có "phản-văn-minh" nó có tính phá hoại, như biết bao khuynh hướng và tình cảnh thực sự ngày nay đang chứng tỏ.

Ai có thể phủ định rằng thời đại chúng ta là thời đại khủng hoảng nghiêm trọng được biểu hiện trước tiên dưới dạng "khủng hoảng chân lý" thật sâu xa? khủng hoảng chân lý, có nghĩa là khủng hoảng về các khái niệm. Các từ "yêu thương", "tự do", "trao ban vô vị lợi" và cả những từ "nhân vị", ‘quyền con người", có còn diễn tả đúng điều mà tự nhiên chúng chỉ nghĩa chăng? Vì thế mà thông điệp về "vẻ huy hoàng chân lý" (Splendor veritatis) đã tỏ ra nhiều ý nghĩa và quan trọng đối với Giáo Hội và thế giới, nhất là ở tây phương chỉ khi chân lý về tự do và hiệp thông những con người trong hôn nhân và gia đình gặp được ánh huy hoàng của mình, thì mới thực sự tiến triển việc xây dựng văn minh tình thương và người ta mới nói cách xây dựng – như công đồng đã làm – "việc làm cho giá trị phẩm giá hôn nhân và gia đình. (35)

Tại sao "vẻ huy hoàng của chân lý" lại quan trọng? Trước hết nó quan trọng vì tính cách khác biệt: sự phát triển văn minh hiện đại gắn liền với tiến bộ khoa học và kỹ thuật, được thực hiện một cách thường là đơn phương, do đó trình bày những đặc tính thuần tuý duy nghiệm. Chủ nghĩa duy nghiệm, như ta đã biết, nó sinh ra thuyết bất khả tri trong những lãnh vực lý thuyết và thuyết duy ích trong những lãnh vực luân lý và thực tiễn. Ở thời đại ta, một nghĩa nào đó, lịch sử được lập lại. Thuyết duy ích là một văn minh của sản xuất và hưởng thụ, một văn minh của "các sự vật" chứ không của "những con người", một văn minh trong đó, con người được sử dụng như người ta dùng sự vật. Trong khung văn minh hưởng thụ, người phụ nữ có thể nên một đồ vật cho đàn ông; con cái nên những vướng vít cho cha mẹ; gia đình nên một định chế phiền hà cho tự do các thành viên tạo nên gia đình. để chắc như thế chỉ cần xét đến một số chương giáo dục giới tính, được đưa vào các trường học, mặc dầu ý kiến ngược lại và mặc dầu những phản đối của nhiều bậc cha mẹ, hoặc là những khuynh hướng ủng hộ phá thai chúng tìm cách ẩn sau cái gọi là "quyền chọn lựa" (pro choice) về phía vợ chồng, và đặc biệt về phía người vợ. Ðó chỉ là hai ví dụ trong nhiều ví dụ có thể kể ra.

Trong tình huống văn hoá ấy, rõ ràng là gia đình có thể cảm thấy mình bị đe doạ, vì nó bị tấn công tự nền. Tất cả những gì ngược với văn minh tình thương, đều nghịch với chân lý toàn vẹn về con người, và như vậy là trở nên đe doạ con người: điều ấy không cho họ tìm được chính mình và cảm thấy được an toàn như chồng vợ, như cha mẹ, như con cái. Cái gọi là "tính dục trong an toàn" được nền "văn minh kỹ thuật" phổ biến, thạât ra, theo quan điểm những gì thiết yếu cho con người, cũng không triệt để an toàn, mà có khi còn nguy hiểm trầm trọng. Quả vậy ở đây con người thấy mình bị nguy hiểm, cũng như đến lượt gia đình bị nguy hiểm. Nguy hiểm ấy như thế nào? Ðó là đánh mất sự thật về gia đình, thêm vào lại có nguy hiểm đánh mất tự do, và do đó, mất chính tình yêu. Chúa Giêsu nói: "các ông sẽ biết chân lý và chân lý sẽ giải phóng các ông" (Ga 8, 32): chân lý, chân lý mới chuẩn bị các bạn vào tình yêu mà người ta có thể bảo là "đẹp"

Gia đình thời nay cũng như gia đình muôn thuở, vẫn đi tìm "tình yêu xinh đẹp". Một tình yêu mà không "đẹp", tức là chỉ hạn chế ở thoả mãn dục vọng (Ga 2, 16) hay "xử dụng" lẫn nhau giữa nam nữ, làm cho nhân vị thành nô lệ những yếu đuối của họ. Thời ta đây, một số "chương trình văn hoá" đã chẳng đưa tới sự nô lệ đó sao? Ðóù là những chương trình "diễn chơi"trên những yếu đuối của con người, làm con người suy yếu thêm và không ai bảo vệ.

Văn minh tình thương mời gọi tới niềm vui, hơn tất cả, niềm vui là "một người đã sinh vào đời (x. Ga 16, 21) và do đó đối với đôi bạn, là niềm vui trở nên cha mẹ, văn minh tình thương có nghĩa là "đặt niềm vui trong sự thật" (coi 1 Cr 13, 6). Nhưng một văn minh cảm hứng bởi não trạng tiêu thụ và chống_sinh sản, không là và không thể là văn minh tình thương bao giờ. Nếu gia đình rất là quan trọng cho văn minh tình thương, vì trong gia đình được tạo nên những liên hệ thân thiết và mạnh mẽ giữa những con người và những thế hệ. Nhưng gia đình vẫn dễ bị thương và dễ trúng thương, do những cái có nguy cơ làm suy yếu, hoặc cả đến phá hoại tính hiệp nhất và bền vững của gia đình. vì những ghềnh rạn ấy, các gia đình không làm chứng cho văn minh tình thương, mà còn có thể nên việc phủ nhận văn minh tình thương, do phản chứng mà ra. Một gia dình rạn nứt lại có thể củng cố một dạng riêng của "phản văn minh" vì phá huỷ tình yêu trong nhiều lãnh vực trong đó tình thương được diễn tả, với nhiều cộng hưởng không thể tránh, trên toàn bộ đời sống xãû hội.
 
Tình yêu là yêu sách
 
14. Tình yêu mà Thánh Tông Ðồ Phao lô dành cho hẳn một ca vịnh, trong thư thứ nhất gởi tín hữu corintô, "tình yêu""nhẫn nại" "phục vụ", "chịu đựng tất cả" (1Cor 13, 4-7), quả là tình yêu rất yêu sách. Chính ở điểm đó mà tình yêu mang vẻ đẹp- điểm nó yêu sách-vì có như thế nó mới xây dựng thiện ích thật của con người và làm toả sáng trên những người khác, quả vậy, "thiện hảo có khuynh hướng thông ban ", như Thánh Thomas đã nói (36). Tình yêu là chân thật khi nó tạo nên thiện ích của con người và các cộng đoàn, khi nó tạo nên thiện ích và trao cho những người khác. Chỉ kẻ nào biết yêu sách chính mình, nhân danh tình yêu, mới có thể xin tình yêu nơi những người khác. Vì tình yêu là yêu sách. Yêu sách trong mọi tình huống con người;nó càng yêu sách với mở rộng lòng cho Tin Mừng. Những gì Chúa Kitô công bố qua "điều răn của Ngài" chẳng phải ở đó sao? Mọi người ngày nay phải khám phá ra tình yêu yêu sách này, vì trong nó có nền tảng vững vàng của gia đình, một nền tảng làm cho gia đình có thể "chịu đựng tất cả". Theo thánh tông đồ, tình yêu không thích hợp để " chịu đựng tất cả" nếu nó nhường chỗ cho "cãi lộn", nếu nó "khoe khoang", nếu nó "kiêu căng" nếu nó không làm gì khiếm nhã, (x. 1Cor 13, 4-5) thánh Phaolô dạy: tình yêu chân chính khác hẳn: "nó tin cậy trong tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả (1Cor 13, 7). Chính tình yêu này mới chịu đựng tất cả, sức mạnh của Thiên Chúa, Ngài là Tình Yêu, hành động trong người ấy (Ga 4, 8-16). Quyền năng Chúa Kitô, Ðấng cứu chuộc loài người và cứu độ thế giới, hành động trong người ấy.

Suy gẫm chương 13, thư thứ nhất Thánh Phaolô gởi cho tín hữu Côrintô, ta đi vào con đường dẫn ta hiểu, cách trực tiếp nhất và xuyên thấu nhất, ý nghĩa chân thực của văn minh tình thương. Không có bản văn vào trong Thánh Kinh, khác với ca vịnh đức ái, diễn tả sự thật này một cách đơn sơ mà sâu sắc hơn.

Những nguy hiểm lây nhiễm tình yêu, cũng tạo nên một đe doạ cho nền văn minh tình thương, vì chúng giúp cho những điều đối nghịch thực sự với văn minh ấy. Ở đây tôi nghĩ trước tiên đến tính ích kỷ, không những ích kỷ của cá nhân, mà còn ích kỷ của đôi lứa, và trong khung rộng hơn, ích kỷ của xã hội, chẳng hạn ích kỷ của một giai cấp, hay của quốc gia (chủ nghĩa quốc gia). Tính ích kỷ, dưới mọi hình thức, đều đối lập trực tiếp và triệt để, chống văn minh tình thương. Ðiều ấy có phải là có nghĩa rằng tình yêu duy được định nghĩa là "chống ích kỷ" chăng? Ðịnh nghĩa như thế là quá nghèo nàn, và xét cho cùng là quá tiêu cực, cho dù quả thực, để hiện thực tình yêu và văn minh tình thương, phải vượt thắng mọi dạng ích kỷ. Bảo "vị tha" là đối đề với "ích kỷ" thật là đúng. Nhưng quan niệm về tình yêu, được thánh Phaolô khai triển, còn phong phú hơn và đầy đủ hơn. Ca vịnh đức ái trong thư thứ nhất gửi tín hữu Corintô, vẫn còn như magna charta (hiến chương lớn) của văn minh tình thương. Nó ít bàn những biểu hiện riêng rẽ (về ích kỷ hay về vị tha) hơn là thẳng thắn chấp nhận quan niệm về con người như một nhân vị "đã gặp được mình" qua việc trao ban mình vô vị lợi. Trao ban, rõ ràng là "cho những người khác": đó là chiều kích quan trọng nhất của văn minh tình thương.

Chúng ta tới trọng tâm của chân lý Tin mừng về tự do. Con người hiện thực mình bằng xử dụng tự do trong sự thật. Ta không thể hiểu tự do như tài năng làm bất cứ cái gì: tự do có nghĩa trao ban mình. Hơn nữa nó muốn nói rằng: tự do là kỷ luật bên trong của trao ban. Trong khái niệm về trao ban, không chỉ xuất hiện sáng kiến tự do của chủ thể, mà còn chỉ chiều kích bổn phận. Tất cả được hiện thực trong "hiệp thông các nhân vị". Ở đây ta ở trong lòng mọi gia đình.

Chúng ta cũng đứng trước những đối lập giữa chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa nhân vị. Tình yêu và văn minh tình thương đều quan hệ với chủ nghĩa nhân vị. Tại sao quan hệ đúng với chủ nghĩa nhân vị? Bởi vì chủ nghĩa cá nhân đe doạ văn minh tình thương chăng? Chìa khoá câu đáp ở trong lời cộng đồng: "một trao ban vô vị lợi". Chủ nghĩa cá nhân giả thiết sự xử dụng tự do, theo đó chủ thể muốn gì làm lấy, "xác định mình là" "chân lý" của điều làm thoả lòng, làm ích cho mình. Nó không muốn cho người khác "vui lòng" hay "yêu sách" nơi nó cái gì khác, nhân danh chân lý khách quan nó không muốn "cho" người khác, theo như sự thật, nó không muốn trở nên "trao ban vô vị lợi". Cho nên chủ nghĩa cá nhân vẫn lấy mình làm trọng tâm và thật là ích kỷ. Ðiều đối lập với chủ nghĩa nhân vị khôngnhững xuất hiện trên lãnh vực lý thuyết, mà còn trên lãnh vực "ethos" luân lý. "Ethos" của chủ nghĩa nhân vị là vị tha: nó đưa con người đến chỗ hy sinh mình cho những người khác và gặp niềm vui trong trao ban chính mình. Ðó là niềm vui mà Chúa Kitô nói đến (x. Ga 15, 11; 16, 20-22).

Cho nên phải làm cho các xã hội, và trong lòng xã hội, là các gia đình đang sống trong bối cảnh đấu tranh giữa văn minh tình thương và những thứ chống đối nó – họ tìm được cơ sở vững chắc, trong cái nhìn đúng mức về con người và những điều xác định "việc hiện thực đầy đủ" nhân tính của mình. cái gọi là "tình yêu tự do", không thể chối cãi được, nó đối lập với văn minh tình thương càng nguy hiểm hơn, khi nó quen được đề ra như việc diễn tả tình cảm "thật", trong thực sự, nó phá hoại tình yêu. Bao gia đình tan vỡ vì " tự do luyến ái"! Trong bất cứ hoàn cảnh nào, cứ theo xúc động tình cảm "thật" nhân danh tình yêu "tự do" khỏi mọi bó buộc, thật ra điều ấy có nghĩa là làm cho con người nô lệ những bản năng con người mà thánh Thomas gọi là "đam mê của linh hồn" (37). "Tình yêu tự do" khai thác những nhược điểm con người, bằng cách cho chúng một "tính đáng kính" nào đó với sự giúp đỡ của mê hoặc và giúp đỡ của công luận. Như vậy là người ta tìm cách "trấn an" lương tâm, tạo ra một "lẩn trốn" "luân lý". Nhưng người ta không xem xét mọi hậu quả từ đó xuất phát, đặc biệt khi người phối ngẫu, và nhất là con riêng của cha hay của mẹ phải trả, vì đã nên mồ côi ngay khi cha mẹ còn sống.

Ta biết rằng ở nền tảng của thuyết duy-ích luân lý có việc luôn luôn tìm "tối đa" hạnh phúc, nhưng là "hạnh phúc duy ích" hiểu như lạc thú, như thoả mãn ngay, có lợi riêng cho cá nhân bên ngoài hay còn đối nghịch những yêu cầu khách quan của thiện ích.

Ý đồ của thuyết duy ích, dựa trên tự do được định hướng theo chiều cá nhân chủ nghĩa, tức là cái tự do không trách nhiệm, tạo ra điều nghịch tình thương, cho dù người ta thấy ở đó có biểu lộ một văn minh nhân bản trong toàn bộ. Khi khái niệm về tự do như vậy được người ta chấp nhận trong xã hội, dễ tạo nguyên nhân chung, với nhiều loại dạng của tính yếu đuối con người, thì khái niệm ấy mau chóng tỏ ra mối đe doạ có hệ thống và trường kỳ cho gia đình. về điểm này ta có thể kể nhiều hậu quả tai hại, được nhận theo thống kê, tuy nhiều hậu quả được che dấu trong trái tim các ông các bà như những vết thương rướm máu.

Tình yêu vợ chồng, và cha mẹ, có thể chứa những vết thương ấy, nếu như những cạm bẫy nêu trên không làm cho tình yêu ấy thiếu sức mạnh tái sinh, rất hữu ích rất lành mạnh, cho các cộng đồng con người. khả năng này được hưởng ơn Thiên Chúa thứ tha và hoà giải, cho phép có được nghị lực thiêng liêng cần cho việc không ngừng bắt đầu lại mãi. Vì thế các thành viên gia đình cần gặp được Chúa Kitô trong Giáo Hội qua bí tích diệu kỳ sám hối và giao hoà.

Như vậy ta thấy tầm quan trọng của cầu nguyện với các gia đình và cho các gia đình, đặc biệt các gia đình bị phân ly đe doạ. Phải cầu nguyện để cho đôi bạn yêu ơn gọi của họ, ngay khi đường đời cam go, gặp nhiều khúc chật hẹp và dốc thẳng, có vẻ không thể vượt qua; phải cầu nguyện để trong những điều kiện này, họ vẫn trung thành cùng giao ước với Thiên Chúa.

"Gia đình là con đường của Giáo Hội". Trong lá thư này, ta muốn nói lên xác tín ấy, và đồng thời loan báo con đường này, nó nhờ đời sống vợ chồng và gia đình mà dẫn vào nước trời (x Mt 7, 14). Cần làm cho "sự hiệp thông những con người" trong gia đình trở nên việc chuẩn bị "hiệp thông các thánh". Vì thế, Giáo Hội tuyên xưng và loan báo "tình yêu chịu đựng tất cả" (I Cr 13, 7), cùng với thánh Phaolô coi nó như nhân đức "trọng đại nhất" (ICr 13, 13). Thánh tông đồ không vẽ giới hạn cho ai cả. Yêu là ơn gọi của mọi người, ơn gọi của các đôi bạn, của các gia đình. Trong Giáo Hội mọi người được gọi đến mức hoàn hảo của thánh thiện (x Mt 5, 48) (38).
 
Ðiều răn thứ bốn: Thảo kính Cha Mẹ.
 
15. Ðiều thứ bốn trong mười điều răn liên quan đến gia đình, sự cố kết nội bộ và có thể nói, sự liên đới vậy.

Trong câu ấy, không rõ là có vấn đề gia đình, nhưng thực sự, đúng là bàn đến gia đình. để diễn tả sự hiệp thông giữa các thế hệ, Thiên Chúa Ðấng ban luật đã không tìm từ nào thích hợp hơn từ "hãy thảo kính" (Xh 20, 12). Ta đang ở trước kiểu diễn tả khác về gia đình. Câu này không đề cao một "cách giả tạo" gia đình, nhưng làm sáng lên diện mạo và quyền lợi gia đình từ đó quy kết. Gia đình là một cộng đồng các quan hệ liên vị, đặc biệt mạnh mẽ giữa vợ chồng, cha mẹ, con cái, giữa những thế hệ khác nhau. Ðây là một cộng đồng phải được bảo vệ đặc biệt và Thiên Chúa không thấy bảo đảm nào tốt hơn "hãy thảo kính".

"Hãy thảo kính người cha, người mẹ, để trường tồn những ngày của ngươi trên đất mà Ðức Chúa Giavê cho ngươi" (Xh 20, 12). Giới răn này tiếp theo ngay ba giới răn căn bản liên hệ tới tương quan con người và dân Israel với thiên Chúa: "Shemá Israel…" "Israel, hãy nghe đây, Ðức Chúa Giavê là Ðức Chúa duy nhất" (Tl 6, 4), "Ngươi không có những thần khác ngoài Ta" (Xh 20, 3). Ðó là điều răn thứ nhất, cao cả nhất điều răn kính mến Thiên Chúa "trên hết mọi sự": phải kính mến Ngài "hết lòng, hết linh hồn, hết sức ngươi" (Tl 6, 5; x. Mt 22, 37). Thật là ý nghĩa khi giớn răn thứ bốn ở ngay bối cảnh này "hãy thảo kính cha ngươi, mẹ ngươi". Bởi vì với ngươi, một nghĩa nào đó, các Ngài là đại diện Ðức Chúa, những người đã cho ngươi sự sống, đã đưa ngươi vào đời người, trong dòng tộc, trong một quốc gia, một văn hoá. Sau Thiên Chúa, các Ngài là ân nhân đầu tiên của ngươi. Thiên Chúa thiện hảo, Thiên Chúa là chính sự thiện hảo, cha mẹ đã tham gia vào sự nhân hậu cao cả ấy. Bởi đấy, ngươi hãy thảo kính cha mẹ! Ở đây có một nét tương tự nào đó với việc phụng tự Thiên Chúa.

Giới răn thứ bốn liên hệ chặt chẽ với giới răn yêu thương. Giữa "thảo kính" và "yêu mến", liên hệ thật sâu sắc. Sự tôn trọng theo yếu tính, nó gắn liền với nhân đức công bình; nhưng nhân đức này không thể được thi hành đầy đủ mà không kêu gọi tới tình yêu: kính mến Thiên Chúa, yêu thương thân cận. Mà ai thân cận hơn những thành phần trong gia đình, cha mẹ và con cái?

Lại những quan hệ liên vị được chỉ định ở điều răn thứ bốn có đơn phương không? Nó chỉ đòi tôn kính cha mẹ chăng? Theo nghĩa đen thì thế. Nhưng gián tiếp ta có thể nói "trân trọng" dành con cái từ phía cha mẹ. "Hãy thảo kính" ở đây có nghĩa "hãy nhìn nhận"! Tức là hãy để mình đi theo sự chân thành nhận biết ngôi vị, ngôi vị của cha mẹ, rồi đến ngôi vị các thành phần gia đình. Sự tôn trọng là một thái độ chính yếu vô vị lợi. Có thể nói nó là "sự trao tặng vô vị lợi người này cho người kia" và theo nghĩa này, sự trân trọng nối tiếp tình yêu mến. Nếu giới răn thứ bốn đòi thảo kính cha mẹ, thì cũng đòi như thế vì thiện ích cho gia đình. cũng vì lẽ ấy, nó cũng đặt yêu sách trên cha mẹ. Giới răn của Chúa như nhắc cho cha mẹ rằng: hỡi các cha mẹ hãy hành động sao để cách sống ông bà đáng trân trọng (và yêu mến) mà con cái dành cho ông bà? Ðừng để yêu cầu thảo kính các vị rơi vào "khoảng trống luân lý". Xét cho cùng, đây là sự trân trọng lẫn nhau. Giới răn "thảo kính cha mẹ"gián tiếp bảo cha mẹ: hãy trân trọng con trai con gái ông bà.

Họ xứng đáng được trân trọng, vì họ hiện hữu, vì là chính họ: mà như thế ngay phút họ được thụ thai. Giới răn này diễn tả những liên hệ thân thiết gia đình cũng làm rõ nền tảng sự gắn bó nội tại.

Giới răn tiếp: "để trường tồn những ngày của ngươi trên đất mà Ðức Chúa Giavê cho ngươi". Từ "để" có thể cho cảm tưởng một sự tính toán "duy ích": Thảo kính để được sống lâu. Chúng ta nói rằng không vì thế mà điều ấy giảm tầm mức chính yếu của mệnh lệnh: " Hãy thảo kính" tự bản chất vẫn gần với thái độ vô vị lợi. Thảo kính không hề bảo: "Hãy tính toán điều lợi trước". Nhưng khó mà không chấp nhận rằng thái độ trân trọng nhau, vốn có giữa các thành phần trong gia đình, cũng có nhiều điều lợi. "Sự trân trọng" chắc chắn là hữu ích, như mọi thiện hảo chân chính là "hữu ích".

Trước tiên, gia đình thực hiện thiện ích "ở chung với nhau", thiện ích tuyệt hảo gắn liền với hôn nhân (do đó mà có tính bất khả phân ly) và với cộng đoàn gia đình. ta còn có thể định nghĩa nó như thiện hảo cho chủ thể. Quả vậy, nhân vị là chủ thể, đó cũng là trường hợp của gia đình, bởi vì gia đình được tạo nên bởi những nhân vị, mà hiệp nhất bằng dây hiệp thông chặt chẽ, tạo nên một chủ thể có tính cộng đồng. Gia đình còn là chủ thể hơn mọi định chế xã hội khác: nó hơn quốc gia, hơn một nước, hơn xã hội và hơn các tổ chức quốc tế. Những xã hội này, những quốc gia nói riêng, có tư cách chủ thể, nói cho đúng còn tuỳ chúng tiếp nhận tư cách ấy từ các con người, các gia đình. Những nhận xét này chỉ là "lý thuyết" và được nói ra nhằm mục đích "đề cao" gia đình trước công luận chăng? Không phải vậy. Ðây là một cách diễn tả khác bản chất của gia đình. Ðiều này do giới răn thứ bốn.

Ðây là một chân lý đáng ghi nhận và đào sâu, quả vậy, chân lý này ghi rõ tầm quan trọng của giới răn này, cũng vì quan niệm mới về quyền con người. Những chuẩn bị về định chế nhờ đến ngôn ngữ pháp lý. Trái lại, Thiên Chúa dạy: "Hãy thảo kính". mọi "quyền con người" cuối cùng vẫn là mong manh và vô hiệu, nếu lúc khởi không xuất hiện mệnh lệnh " Hãy thảo kính". Nói cách khác, nếu thiếu sự nhìn nhận con người chỉ vì việc làm người, làm người "này". Một mình chúng, các quyền không đủ.

Cho nên không phải là quá đáng khi nhắc lại rằng đời sống các quốc gia, các nước, các tổ chức quốc tế đều qua gia đình; mà gia đình đặt nền tảng trên giới răn thứ bốn trong Mười điều răn của Chúa. Thời đại của chúng ta đang sống, mặc dầu có nhiều tuyên ngôn thuộc loại pháp lý được soạn thảo, vẫn còn bị đe doạ phần lớn bởi sự "tha hoá". Kết quả của những tiền đề "duy lý", theo đó con người là "người hơn" khi nó "chỉ là người ". Không khó gì để nhận ra rằng sự tha hoá tất cả những gì, bằng nhiều cách, làm nên sự phong phú sung mãn của con người, đều đe doạ thời đại ta. Chính ở đây có sự can thiệp của gia đình. quả thế, khẳng định nhân vị phần lớn nối liền với gia đình và do đó với giới răn thứ 4 của Chúa. Trong ý định của Thiên Chúa, gia đình là trường học thứ nhất của con người theo mọi phương diện. Hãy là người! Ðó là được lưu truyền trong gia đình: người như con của quê hương, như công dân của một quốc gia, và ngày nay, người ta nói, là công dân của thế giới. Ðấng đã trao cho nhân loại giới răn thứ 4 là đấng Thiên Chúa "Nhân hậu" đối với con người (người Hy lạp nói: philanthropos: ái nhân). Ðấng tạo thành vũ trụ là Thiên Chúa tình thương và sự sống. Ngài muốn con người có sự sống và sống dồi dào, như Chúa Kitô đã công bố (Ga 10, 10) mà có sự sống là nhờ gia đình.

Ở đây rõ ràng là "văn minh tình thương"cố kết với gia đình. Ðối với nhiều người, văn minh tình thương tạo nên một không tưởng hoàn toàn. quả thế người ta xét rằng mình không thể vọng tưởng tình yêu của con người nào mà cũng chẳng áp đặt tình yêu với ai được: Ðây chỉ là chọn lựa tự do, mà người ta có thể chấp nhận hay từ chối.

Trong tất cả điều ấy, cũng có điều thật. Nhưng vẫn còn việc Chúa Kitô để lại cho ta giới luật yêu thương, cũng như Thiên Chúa đã ra lệnh truyền trên núi Sinai "Hãy thảo kính cha mẹ !" cho nên yêu thương không phải là điều không tưởng: Tình yêu được ban cho con người như một hành động phải hoàn thành, với sự trợ lực của ơn Chúa. Tình yêu trao cho người Nam và người Nữ trong bí tích hôn nhân, như nguyên lý đầu hết của "bổn phận" và nó nên nền tảng cho họ để dấn thân cho nhau, trước hết là dấn thân theo tình phu thê, sau đó là dấn thân như cha như mẹ. Trong cử hành lễ cưới đôi bạn cho và nhận nhau, tuyên bố sẳn sàng đón nhận và giáo dục con cái. Ðó là trục xoay của văn minh loài người, nền văn minh không thể định nghĩa thế nào khác, mà phải là văn minh tình thương".

Gia đình là biểu lộ và nguồn tình yêu đó. Qua gia đình, xuyên suốt đường lực chính của văn minh tình thương, tình thương tìm được nơi gia đình những cơ sở xã hội.

Các Giáo phụ, suốt truyền thống Kitô giáo, đã nói gia đình như "giáo hội tại gia", một "giáo hội nhỏ bé". Như thế, các Ngài nghĩ rằng văn minh tình thương là khả năng tổ chức đời sống và tính đồng sinh của con người. "Ở với nhau" như gia đình hiện hữu những người này cho những người kia, tạo nên không gian cộng đồng để người nào cũng khẳng định mình là mình, để cho "người cụ thể này, kia" được tự khẳng định. Ðôi khi có chuyện những người bị thiệt thòi thể lý hay tâm lý, mà xã hội gọi là "tiến bộ"thích phủi tay đi. Chính gia đình cũng có thể trở nên giống như cái xã hội ấy. Nó nên như thế theo sự việc, khi nó muốn mau mau gỡ khỏi những người gìa, những người cùng khổ tâmvì xấu dáng hay bị bệnh tật. Người ta hành động như thế vì thiếu lòng tin vào Thiên Chúa, đấng mà "mọi người được sống cho Ngài (Lc 20, 38) và tất cả được gọi sống đầy đủ trong Ngài.

Phải, văn minh tình thương là điều có được, không phải là điều không tưởng. Nhưng nó chỉ có thể có được khi người ta hăng hái luôn luôn hướng về "Thiên Chúa, là Cha của Ðức Giêsu Chúa chúng ta, từ Ngài phát xuất mọi tình phụ tử trên đời" (Eph 3, 14-15), từ Ngài mới có mọi gia đình con người.
 
Giáo dục
 
16. Giáo dục hệ tại điều gì? Ðể trả lời câu hỏi này, phải nhắc lại hai sự thật chính yếu: Thứ nhất, là con người được gọi để sống trong sự thật và tình thương;thứ hai là mọi người được hiện thực chính mình khi trao ban vô vị lợi. Ðiều ấy có gía cho người làm giáo dục, cũng như cho người được giáo dục. Cho nên, giáo dục tạo ra một quá trình duy nhất, trong đó sự thông hiệp giữa nhân vị rất là nhiều ý nghĩa. Nhà giáo dục là người "sinh thành"theo nghĩa thiêng liêng. trong viễn ảnh ấy, giáo dục được coi như một việc tông đồ thật. Nó là thông ban sự sống tạo nên không những tương quan sâu sắc giữa nhà giáo dục và người được giáo dục, mà còn làm cho họ tham dự cả hai vào chân lý và tình thương, là mục đích cuối cùng mà mọi người được gọi tới từ phía Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

Tình làm cha mẹ giả thiết sự cộng đồng sinh tồn và tác động hỗ tương các chủ thể tự lập. Ðặc biệt là hiển nhiên, khi một người mẹ mang thai một con người mới. Những tháng đầu hiện diện bé trong lòng mẹ tạo thành mối liên kết đặc biệt đã mang giá trị giáo dục. Ngay từ thời trước khi sinh con, người mẹ đã cấu trúc không những cơ thể con, mà còn gián tiếp cấu trúc cả tính nhân bản con. Dù đây là quá trình hướng từ mẹ tới con, nhưng cũng không được quên rằng ảnh hưởng đặc thù từ con sắp sinh vẫn thực thi trên mẹ. Người cha không có phần trực tiếp vào ảnh hưởng hỗ tương này đang được biểu lộ rõ ràng sau khi bé sinh ra. Tuy nhiên, ông phải dấn thân có trách nhiệm, để lưu ý và đỡ nâng khi mang thai, và nếu có thể, cả khi sinh con nữa.

Ðối với "văn minh tình thương", cần thiết người đàn ông phải cảm được tình làm mẹ của người vợ mình như một ơn ban: quả vậy, việc ấy ảnh hưởng lớn trên toàn quá trình giáo dục. Rất nhiều điều tuỳ thuộc ở việc ông sẵn sàng nhận phần chính đáng của mình, trong giai đoạn đầu của việc trao ban nhân bản, và lãnh phần là chồng là cha mà liên đới với việc làm mẹ của bạn mình.

Giáo dục trước hết là một "trao ban tự do"tính nhân bản do cả hai cha mẹ: họ cùng thông ban tính nhân bản trưởng thành cho bé sơ sinh, và đến lượt mình, em lại trao ban cho cha mẹ nét mới mẻ tươi mát cho tính nhân bản, em mang cho đời. Việc ấy vẫn hiện thực trong trường hợp các bé thơ bị tật nguyền tâm lý hay thể lý, và cả khi đó tình cảnh chúng cũng có thể cho nền giáo dục một cường độ rất đặc biệt.

Trong lễ thành hôn, Giáo hội có lý chính đáng hỏi: "Anh chị có sẵn sàng yêu thương đón nhận con cái mà Thiên Chúa muốn ban cho anh chị, và giáo dục chúng theo lề luật Chúa Kitô và giáo hội chăng" (39). Trong giáo dục, tình yêu phu thê được bày tỏ như tình yêu chân thực của cha mẹ. "Hiệp thông những con người", khởi đi từ gia đình, được diễn tả dưới dạng tình yêu phu thê, sẽ được hoàn thành và phong phú khi tràn trên con cái qua giáo dục. Sự phong phú tiềm ẩn được tạo nên bởi mọi người sinh ra và lớn lên trong gia đình, phải được tiếp nhận để nó đừng suy thoái, đừng đánh mất mình, nhưng trái lại nó được triển nở trong tính nhân bản luôn chín chắn hơn. Ðây cũng là tính tương-hỗ năng động, trong đó cha mẹ giáo dục cũng được giáo dục trong mức độ nào đó. Là bậc thầy về nhân bản cho chính con cái mình, nên vì con cái, cha mẹ cũng phải lo tập sự. Ðó là nét nổi bật về cấu trúc hữu cơ của gia đình và hiện rõ ý nghĩa căn bản của giới răn thứ bốn.

Từ "chúng ta" của cha mẹ, của chồng và vợ, qua giáo dục, còn kéo dài trong "chúng ta" của gia đình, nó tháp vào những thế hệ đi trước và mở rộng dần dần. Về mặt này, cha mẹ của cha mẹ (tức là Ông bà) cũng đóng vai trò quan trọng của mình, và về phần các con các cháu cũng có vai trò quan trọng như thế.

Nếu khi trao ban sự sống, cha mẹ tham dự vào công việc sáng tạo của Thiên Chúa, thì qua giáo dục, họ tham dự vào việc sư phạm chung làm cha làm mẹ, của Ngài. Tình phụ tử của Thiên Chúa, theo thánh Phaolô viết, tạo nên nguồn và mẫu mọi tình làm cha làm mẹ trong vũ trụ (Eph. 3, 14-15), riêng về tình làm mẹ làm cha trong loài người. Về sư phạm của Chúa, chúng ta được giáo huấn đầy đủ bởi Ngôi lời vĩnh cửu của Chúa Cha;khi nhập thể, Ngôi lời đã được mạc khải cho con người chiều kích thật và trọn vẹn về nhân bản, tức là làm con Thiên Chúa Như thế, Ngài cũng mạc khải cho ta biết thế nào là ý nghĩa thực của giáo dục con người. Qua Chúa Kitô mọi lời giáo dục, trong gia đình cũng như nơi khác, đều đi vào chiều kích cứu độ trong sư phạm của Thiên Chúa, vốn dành cho con người và gia đình, lên tột đỉnh trong mầu nhiệm vượt qua khỏi sự chết để phục sinh của Chúa Kitô. Mọi tiến trình giáo dục Kitô giáo, đồng thời cũng là giáo dục làm người đầy đủ, khởi đi từ "trung tâm"việc cứu chuộc chúng ta.

Cha mẹ sinh thành là những nhà giáo dục trước tiên và chính của con cái họ, cha mẹ đã có được thẩm quyền căn bản trong lãnh vực này: họ là nhà giáo dục vì là cha mẹ. Họ chia sẻ sứ mệnh giáo dục với những người khác, những định chế khác như Giáo hội và Nhà nước;nhưng việc ấy phải luôn được thực hiện theo sự đứng đắn áp dụng nguyên tắc hỗ trợ. Theo nguyên tắc này, thật là hợp pháp và là bổn phận phải mang đến sự giúp đỡ cho bậc cha mẹ, nhưng vẫn tôn trọng giới hạn bên trong không thể vượt qua do ưu điểm các quyền lợi và các khả năng cụ thể của bậc cha mẹ. Nguyên tắc hỗ trợ đến giúp đỡ cho tình yêu cha mẹ, vun đầy cho thiện hảo hạt nhân gia đình. quả thế, cha mẹ không đủ khả năng một mình đáp ứng cho mọi quá trình giáo dục trong toàn bộ, đặc biệt ở những điều liên quan tới học vấn và khu vực rộng lớn xã-hội-hoá. Như thế, hỗ trợ bổ túc cho tình yêu của cha của mẹ và kiện chứng tính cách căn bản tình yêu ấy, do việc những người khác, cũng tham gia vào quá trình giáo dục này, chỉ có thể hành động nhân danh bậc cha mẹ đồng ý, và trong mức độ nào đó, như là được cha mẹ uỷ thác vậy.

Việc theo đuổi giáo dục cho tới giai đoạn tự giáo dục mà người ta đạt tới, khi nhờ một trình độ xứng hợp trưởng thành tâm lý và thể lý, con người bắt đầu "giáo dục mình" theo dòng thời gian, tự kỷ giáo dục vượt qua những mục tiêu trước đã đạt trong quá trình giáo dục, tuy nhiên tự kỷ giáo dục vẫn phải ăn rễ vào quá trình ấy. Người thiếu niên gặp nhiều người khác, nhiều môi trường khác, đặc biệt là các thầy cô và bạn học, họ tác động lên đời sống thiếu niên ấy một ảnh hưởng có thể tỏ ra giáo dục hoặc phản giáo dục. Ở giai đoạn này, em như rời khỏi cách nào đó giáo dục từ gia đình và đôi khi có thái độ phê bình cha mẹ. Nhưng dù sao, quá trình tự giáo dục cũng không thể không chịu ảnh hưởng giáo dục gia đình đã làm, cũng như nhà trường đã làm trên đứa trẻ, tuỳ nam hay nữ. Ngay khi biến đổi chính mình và tự định hướng mình, người thanh niên tiếp tục thân thương gắn bó với nguồn gốc cuộc đời mình.

Trong bối cảnh này, tầm mức của giới răn thứ 4: "Hãy thảo kính cha mẹ! (Xh 20, 12) xuất hiện một cách mới mẻ, và vẫn được liên kết hữu cơ với toàn bộ quá trình giáo dục. Tình làm cha làm mẹ, hai yếu tố căn bản trước tiên của việc trao ban của nhân loại, mở ra trước mặt cha mẹ và con cái những viễn ảnh mới sâu xa hơn. Sinh theo thân xác có nghĩa là bắt đầu cuộc sinh khác, từng bậc và phức hợp, qua suốt quá trình giáo dục. Giới răn trong Mười điều răn bắt người con thảo kính cha mẹ. Nhưng như đã nói ở trên, cũng giới răn này buộc cha mẹ có bổn phận gần như là "đối xứng".

Họ cũng phải thảo mến con cái, lớn nhỏ, và thái độ này cần trong suốt quá trình giáo dục, kể cả thời đi học. "Nguyên tắc tôn trọng", tức là nhìn nhận và tôn trọng người như người, là điều kiện căn bản của mọi quá trình giáo dục đích thật.

Trong môi trường giáo dục, giáo hội có vai trò đặc thù. Theo ánh sáng truyền thống và huấn quyền công đồng, ta có thể nói rằng không chỉ có vấn đề trao phó cho giáo hội việc giáo dục tôn giáo và luân lý cho con người, mà còn phải phát huy cả quá trình giáo dục con người, "với"giáo hội nữa. Gia đình được gọi hoàn thành nhiệm vụ giáo dục trong giáo hội, tham gia vào sự sống và sứ mệnh giáo đoàn. Giáo hội ước mong giáo dục qua gia đình, vì đã quen việc ấy nhờ bí tích hôn phối, với "ơn bậc sống"từ bí tích ban cho và đoàn sủng đặc biệt vốn riêng cho mọi cộng đoàn mang tính gia đình.

Một trong những lãnh vực trong đó không ai thay thế gia đình được, đó quả là lãnh vực giáo dục tôn giáo, cho gia đình được phát triển như "Giáo hội tại gia". Giáo dục tôn giáo và huấn giáo cho con cái, đặt gia đình vào giáo hội như những chủ thể tác động đích thực truyền giảng Tin mừng và làm việc Tông đồ. Ðây là một quyền thật gắn bó với nguyên tắc tự do tôn giáo. Các gia đình, và cụ thể hơn, các cha mẹ được tự do chọn cho con cái một mẫu giáo dục tôn giáo và luân lý nhất định hợp với xác tín của mình.

Nhưng dù khi họ trao phó những việc ấy cho các định chế giáo hội hay nhà trường do nhân sự tôn giáo điều khiển, họ cũng cần hiện diện thường xuyên và tích cực giáo dục.

Trong giáo dục cũng không được bỏ qua vấn đề cấn thiết là phân biệt ơn gọi, và trong khuôn khổ này, đặc biệt là việc chuẩn bị đời sống hôn nhân. Giáo hội đã hết sức đưa nhiều sáng kiến đáng kể để chuẩn bị cho hôn nhân, chẳng hạn các khoá học được tổ chức cho các đôi đính hôn. Tất cả việc đó đều giá trị và cần thiết. Nhưng không được quên rằng chuẩn bị cho đời sống tương lai của đôi lứa cũng là công việc của gia đình trước. quả vậy, chỉ những gia đình trưởng thành về đàng thiêng liêng mới có thể thi hành trách nhiệm một cách thích ứng. Cho nên cần nhấn mạnh sự cần thiết một tình liên đới chặt chẽ giữa các gia đình, liên đới ấy có thể được diễn tả qua nhiều loại tổ chức như liên-hiệp-gia- đình cho các gia đình. Ðịnh chế gia đình được củng cố nhờ tình liên đới liên kết không những con người gần lại với nhau, mà còn cả các cộng đoàn, kêu mời họ cùng cầu nguyện chung và với sự góp sức của mọi người tìm ra những câu đáp cho những vấn đề chính nảy ra trong cuộc sống. Ðấy chẳng là dạng thức qúi báu làm việc tông đồ gia đình cho các gia đình sao? Cho nên cần các gia đình tìm cách nối liền các mối liên đới với nhau. Ngoài ra còn cho họ trao đổi các sự giúp đỡ giáo dục, cha mẹ được nhờ cha mẹ, con cái được nhờ con cái. Như vậy một truyền thống giáo dục đặc biệt được tạo nên, mà dạng thức "giáo hội tại gia" thích hợp cho gia đình càng thêm vững mạnh. Tin mừng tình thương là nguồn vô tận của mọi điều nuôi dưỡng gia đình con người, xét theo là "hiệp thông những con người". Toàn quá trình giáo dục tìm được trong tình thương sự nâng đỡ và ý nghĩa sau cùng, vì nó là kết quả của sự trao ban của vợ chồng cho nhau trọn vẹn. Tuỳ ở những cố gắng, những đau khổ và những sai lầm đồng hành việc giáo dục con người, tình yêu không ngừng bị thử thách. Ðể thắng vượt, phải có nguồn lực thiêng liêng vốn chỉ ở nơi Ðấng "đã yêu thương tới cùng (Ga 13, 1). Giáo dục như vậy là ở đúng viễn ảnh "văn minh tình thương" giáo dục tuỳ thuộc văn minh tình thương và trong mức độ lớn, cũng góp phần xây dựng văn minh ấy.

Lời nguyện tin tưởng và triền miên của Giáo hội trong Năm của Gia đình xin cho việc giáo dục con người, hầu các gia đình kiên trì trong việc giáo dục, một can đảm, tín nhiệm và hy vọng, dù có nhiều khó khăn đôi khi trầm trọng như là không thể vượt qua. Giáo hội cầu nguyện cho những năng lực của "văn minh tình thương"từ nguồn tình yêu của Thiên Chúa phát xuất, được nổi vượt;những năng lực mà giáo hội không ngừng sử dụng để lo thiện ích cho gia đình nhân loại.

Gia đình và xã hội
 
17. Gia đình là một cộng đoàn các nhân vị, là tế bào xã hội nhỏ nhất, và như thế, nó là định chế cơ bản cho mọi xã hội sinh tồn.

Gia đình như là định chế chờ đợi gì nơi xã hội? Trước tiên, là được nhận theo đúng căn tính gia đình và chấp nhận là một chủ thể xã hội. Bản tính là chủ thể này được gắn với căn tính riêng của hôn nhân và gia đình. Hôn nhân, là nền tảng của định chế gia đình, hệ tại một giao ước nhờ đó "một người nam, một người nữ lập nên giữa họ một cộng đồng suốt đời, được điều hợp qua đặc tính tự nhiên tới thiện ích cho hai phối ngẫu cũng như cho việc sinh sản và giáo dục con cái" (40). Chỉ có sự liên kết này mới có thể được nhìn nhận và công nhận như một "hôn nhân " trong lòng xã hội. Ngược lại, sự kết hợp các con người kiểu khác, không đáp ứng những điều kiện nhắc lại ở trên, không được công nhận là hôn nhân, dù ngày nay đang lan tràn về điểm này những xu hướng rất nguy hiểm cho tương lai các gia đình và cho chính xã hội.

Không xã hội con người nào có thể chạy theo cái nguy cơ cho phép trong những vấn đề căn bản liên quan tới yếu tính hôn nhân và gia đình ! Một lối cho phép về luân lý như vậy chỉ có thể làm thiệt hại cho những yêu cầu đích thực của hoà bình và hiệp thông giữa mọi người. Cho nên người ta hiểu tại sao giáo hội mạnh mẽ bảo vệ căn tính gia đình, và tại sao giáo hội khích lệ các định chế có thẩm quyền, đặc biệt những người có trách nhiệm về đời sống chính trị, cũng như các tổ chức quốc tế đừng nhượng bộ cho cơn cám dỗ của một lối hiện đại sai lầm và hào nhoáng.

Là cộng đồng sống và thương yêu, gia đình là một thực tại xã hội vững vàng có căn cơ và, một cách đặc biệt, là xã hội cao cả, dù có bị đặt điều kiện ở nhiều quan điểm. Khẳng định quyền cao cả của định chế gia đình và nhận định nhiều điều kiện của nó, đưa ta nói đến các quyền gia đình. Về vấn đề này, Toà Thánh đã công bố năm 1983 Hiến chương các quyền gia đình đến nay vẫn còn tính thời sự.

Những quyền gia đình được gắn liền với những quyền con người. quả thế, nếu gia đình là hiệp thông các nhân vị, sự triển nở gia đình tuỳ thuộc một cách rất ý nghĩa, ở việc thích nghi đúng đắn các quyền của các nhân vị tạo nên một gia đình. Một vài quyền liên quan trực tiếp đến gia đình, như quyền cha mẹ được sinh con có trách nhiệm và giáo dục con cái, trái lại, nhiều quyền khác liên quan đến hạt nhân gia đình một cách gián tiếp, trong đó, đặc biệt quan trọng là quyền tư hữu, riêng ở những gì gọi là tư hữu gia đình, và quyền làm việc.

Nhưng các quyền gia đình không chỉ là tổng cộng theo toán học các quyền con người, vì gia đình còn là cái gì hơn tổng cộng các thành phần gia đình tách riêng ra. Gia đình là cộng đồng cha mẹ con cái, đôi khi là một gia đình gồm nhiều thế hệ. Do đó, tư cách chủ thể gia đình được thực hiện theo ý Chúa, lập ra và đòi những quyền đặc thù riêng. Khởi đi từ những nguyên tắc luân lý đã phát biểu, Hiến chương những quyền gia đình làm vững sự hiện hữu định chế gia đình trong trật tự xã hội và pháp lý của xã hội "lớn": là quốc gia, nhà nước và những cộng đồng quốc tế. Từng xã hội "lớn" này ít ra cũng gián tiếp chịu điều kiện của việc có một gia đình;để được như thế định nghĩa các bổn phận và quyền lợi của xã hội "lớn"đối với gia đình là vấn đề cực kỳ cần thiết và chính yếu. Trước hết, ta thấy liên hệ gần như hữu cơ được lập giữa gia đình và quốc gia. Tự nhiên, ta không thể nói đến quốc gia theo nghĩa riêng trong mọi hoàn cảnh. Mà có những nhóm dân tộc, họ tuy không thể được coi như những quốc gia thực, nhưng một mức nào đó đã đạt tới hàng xã hội "lớn". Trong giả thiết này hay giả thiết kia, liên hệ gia đình với nhóm dân tộc hay với quốc gia vẫn dựa trước tiên vào sự tham gia một văn hoá. Theo một nghĩa đó cũng là vì quốc gia mà cha mẹ sinh ra con cái, để chúng làm thành phần quốc gia và tham gia vào gia tài lịch sử và văn hoá. Ngay từ đầu, căn tính của gia đình phát triển trong mức độ nào đó theo hình ảnh căn tính của quốc gia mà gia đình ấy thuộc về.

Khi tham gia vào gia tài văn hoá của một nước, gia đình góp phần cho quyền tối thượng đặc biệt phát sinh từ văn hoá và ngôn ngữ quốc gia ấy. Tôi đã đề cập vấn đề này ở Hội đồng của UNESCO tại Paris năm 1980 và tôi đã trở lại vấn đề này nhiều lần vì tầm quan trọng không thể chối cãi của nó. Nhờ văn hoá và ngôn ngữ, không những quốc gia mà từng gia đình còn tìm được quyền cao cả tinh thần của mình. Không vậy, khó giải thích nhiều những biến cố lịch sử các dân tộc, đặc biệt ở châu Âu: những biến cố xưa, những biến cố mới đây, những biến cố may lành hay khổ lụy, những thắng lợi, những thất bại, chứng tỏ gia đình được liên kết hữu cơ với quốc gia, và quốc gia liên kết hữu cơ với các gia đình.

Liên kết gia đình với nhà nước cũng có phần giống có phần khác như thế. Quả vậy, Nhà nước khác với Quốc gia do cấu trúc kém "gia đình" hơn, vì được tổ chức theo một chế độ chính trị và một cách có "tính bàn giấy"hơn. Tuy nhiên, dù một nghĩa nào đó, chế độ nhà nước có "hồn"chăng nữa, tuỳ mức độ nó đáp ứng được bản tính nó "là cộng đồng chính trị" theo pháp lý được điều hợp lo công ích (41). Gia đình liên hệ chặt chẽ với "hồn" ấy, gia đình liên hệ với Nhà nước chính vì nguyên tắc hỗ trợ nhau. Quả vậy, gia đình là thực tại xã hội không sẵn mọi phương thế cần thiết lo những mục đích riêng gia đình, nhất là trong lãnh vực giáo huấn và giáo dục. Lúc đó Nhà nước được mời gọi can thiệp theo nguyên tắc hỗ trợ kể trên: ở đâu gia đình có thể tự túc, nên để cho gia đình hành động cách tự lập;sự can thiệp quá đáng của nhà nước không những tỏ ra bất tôn trọng, mà còn gây hại cho gia đình, vì tạo ra sự xâm phạm hiển nhiên các quyền gia đình, chỉ ở điều nào gia đình không thể thực sự tự túc thì nhà nước mới có thể và có bổn phận can thiệp.

Ngoài lãnh vực giáo dục và giáo huấn ở các mức độ, việc giúp đỡ của nhà nước, dù sao cũng không được loại những sáng kiến các tư nhân, việc giúp đỡ ấy được biểu lộ trong những qui định nhằm cứu sự sống và sức khoẻ công dân và đặc biệt, trong những biện pháp phòng ngừa có liên hệ đến giới lao động. Nạn thất nghiệp thời nay tạo nên một trong những đe doạ nghiêm trọng đến đời sống gia đình và thực đang làm bận tâm mọi xã hội, thất nghiệp tạo ra thách đố cho chính trị các nhà nước, và là một đối tượng phải chú ý suy nghĩ cho một học thuyết xã hội của giáo hội. Cho nên hơn bao giờ hết, cần và khẩn cấp tìm cách chữa trị thất nghiệp, bằng những giải pháp can đảm, biết hướng tầm nhìn vượt biên giới quốc gia, tới nhiều những gia đình mà không có việc làm đang ở trong tình trạng khốn khổ thê thảm (42).

Nói về lao động có liên hệ tới gia đình, nên nhấn mạnh tầm quan trọng và giá trị của việc làm của các Bà trong gia đình; (43) phải nhìn nhận và đánh gía cao việc làm ấy. "Gánh nặng" người vợ, khi đã cho con chào đời, nuôi nó, săn sóc nó, lo giáo dục nó, đặc biệt những năm đầu thật là lớn lao, đến nỗi không sự so sánh cùng bất kỳ công việc chuyên ngành nào. Ðiều này phải được khẳng định cho rõ, cũng như phải được bảo vệ như bất cứ quyền nào liên hệ tới lao động. Với tất cả những nỗi mệt nhọc, việc làm mẹ phải được người ta biết ơn về mặt kinh tế ít ra bằng sự biết ơn các lao động khác được hoàn thành để lo nuôi sống gia đình trong giai đoạn tế nhị của cuộc sống.

Thật phải không được tiếc một cố gắng nào để cho gia đình được nhìn nhận như xã hội đầu tiên và "tối thượng" cách nào đó. Quyền "tối thượng" này cần cho lợi ích của xã hội. Một quốc gia thực sự cao ca ûvà mạnh tinh thần, bao giờ cũng gồm nhiều gia đình mạnh, ý thức ơn gọi của mình và sứ mệnh của mình trong lịch sử. Gia đình ở trung tâm các vấn đề và các nhiệm vụ đó: trao cho gia đình vai trò tuỳ thuộc hàng nhì, tách gia đình khỏi vị trí xứng hợp trong xã hội, có nghĩa là gây nên thiệt hại lớn cho việc tăng trưởng toàn thể xã hội.
 
II. ÐỨC PHU QUÂN Ở VỚI TA
 
Tại Cana xứ Galilêa

18. Một hôm, trước các đệ tử của Gioan, Chúa Giêsu nói đến việc mời đám cưới và sự hiện diện của chàng rể trong những khách mời: "Chàng rể ở với họ" (Mt 9, 15). Qua đó Chúa nói đến sự hoàn thành nơi Ngài hình ảnh trong Cựu ước về một Thiên Chúa–Phu quân để mạc khải đầy đủ mầu nhiệm Thiên Chúa là Mầu nhiệm Tình yêu.

Khi tự gọi mình là "chàng rể", Chúa Giêsu tiết lộ yếu tính Thiên Chúa và khẳng định tình thương bao la của Ngài dành cho loài người. Nhưng việc chọn hình ảnh này cũng gián tiếp làm sáng tỏ bản tính thật của tình yêu phu thê. quả vậy, khi nhờ hình ảnh này để nói về Thiên Chúa, Chúa Giêsu cho thấy tình phụ tử và yêu thương của Thiên Chúa đối với loài người đã phản ánh tới mức độ nào nơi tình yêu của một người Nam và một người Nữ phối hiệp trong hôn nhân. Chính vì thế, ngay đầu sứ vụ, Chúa Giêsu đã ở Cana xứ Galilêa, để dự tiệc cưới, cùng với Ðức Maria và những môn đệ trước tiên (Ga 2, 1-11). Ngài muốn tỏ rằng chân lý về gia đình đã ghi trong mặc khải của Thiên Chúa và trong lịch sử cứu độ. Trong Cựu ước, đặc biệt trong các Tiên tri, ta gặp nhiều lời rất đẹp về tình yêu của Thiên Chúa: Một tình yêu đầy chú ý như người mẹ chăm sóc con, dịu dàng như mối tình chồng dành cho bạn trăm năm, những cũng rất ghen; trước tiên không phải là tình yêu đánh phạt mà là tình yêu tha thứ; một tình yêu nghiêng mình trên con người như người Cha cúi hôn đứa con hoang đàng, nâng dậy và cho tham dự sự sống Thần linh. Một tình yêu làm ngạc nhiên: đây là điều mới lạ từ trước chưa từng có, trong thế giới ngoại giáo.

Tại Cana xứ Galilêa, Chúa Giêsu như người rao giảng chân lý Thiên Chúa về hôn nhân, chân lý mà mỗi gia đình con người phải dựa vào, vì tìm được ở đây sức mạnh cần thiết, đương đầu mọi thử thách cuộc đời. Chúa Giêsu loan báo chân lý này bằng sự hiện diện của Ngài trong đám cưới Cana và bằng cách làm "dấu chỉ" đầu tiên: nước lã thành rượu nho.

Ngài còn loan truyền chân lý về hôn nhân khi nói với người biệt phái và giải thích rằng tình yêu –là bởi Thiên Chúa, tình yêu dịu dàng như của chú rể-là nguồn yêu sách sâu xa và triệt để. Môsê đã không yêu sách như thế: Ông đã cho phép được trao tờ bỏ vợ. Trong cuộc tranh cãi gay gắt, khi người biệt phái nại đến Môsê, Chúa Giêsu trả lời thẳng: "ban đầu, đã không như thế. " (MT 19, 8). Và Chúa nhắc lại rằng Ðấng dựng nên con người, đã dựng nên họ có nam có mữ, và Ngài truyền: "người nam bỏ cha mẹ mà luyến ái cùng vợ mình, và cả hai nên một xác thể" (St 2, 24). Với mạch lạc lô-gich, Chúa Kitô kết: "Như vậy họ không còn là hai, mà là một xương thịt. Vậy điều Thiên Chúa đã kết hợp, con người đừng có phân ly" (Mt 19, 6). Trước vấn nạn của Pharisiêu tự cho mình giữ luật Môsê, Ngài đáp: "Ðó là vì sự cứng lòng của các ngươi mà Môsê mới cho các ngươi dẫy vợ, chứ từ ban đầu không có như thế". (Mt 19, 8).

Chúa Giêsu nhắc đến " ban đầu", tìm lại từ khởi nguyên sáng tạo, ý định của Thiên Chúa, nơi gia đình ăn sâu vào và qua trung gian gia đình cả lịch sử nhân loại phải bám trụ. Thực tại tự nhiên của hôn nhân, theo ý Chúa Kitô, phải là Bí tích thực của Giao ước mới được đóng ấn bằng máu Chúa Kitô cứu thế. Hỡi các vợ chồng, các gia đình, hãy nhớ mình được "mua" bằng gía nào ! (1Cr 6, 20).

Chân lý lạ lùng này về mặt loài người khó mà tiếp nhận và sống theo. Làm sao ngạc nhiên rằng Môsê đã nhượng bộ cho các yêu cầu của đồng bào ông, khi chính các tông đồ, lúc nghe lời Thầy, cũng cãi: " Nếu kiếp người nam đối với người nữ mà như vậy thì thà đừng cưới hỏi làm chi" (Mt 19, 10). Tuy nhiên, để ích lợi cho người nam, người nữ, gia đình và toàn thể xã hội, Chúa Giêsu khẳng định yêu sách mà Thiên Chúa đặt ra từ đầu. Nhưng đồng thời Ngài dùng dịp này để khẳng định gía trị sự chọn lựa là không cưới hỏi vì nước Thiên Chúa: Sự chọn lựa này cũng cho "sinh sản", tuy có theo cách khác. Sự chọn lựa này là khởi điểm đời tận hiến của các Dòng, các Tu hội bên phương Ðông phương Tây, cũng như luật độc thân Linh mục theo truyền thống giáo hội Latinh. Cho nên không thực sự là "không nên cưới hỏi làm chi", mà là tình yêu mến Nước Trời cũng có thể thúc bách đừng cưới xin, đừng lấy vợ lấy chồng (Mt 19, 12).

Tuy nhiên cưới xin vẫn là ơn gọi thông thường của con người, ơn gọi được phần lớn nhất trong dân Chúa chọn lấy. Chính trong gia đình mới tạo nên những viên đá sống động của toà nhà thiêng liêng mà Thánh Tông đồ Phêrô nói tới (1 Pr 2, 5).

Thân xác vợ chồng là đền Chúa Thánh thần (1 Cr 6, 19). Bởi vì sự truyền sức sống Thiên Chúa ban cũng gỉa thiết sự truyền sự sống con người, từ hôn nhân mà sinh ra không những con cái loài người mà chiếu theo bí tích Rửa tội, còn sinh ra những dưỡng tử của Thiên Chúa, họ sống bằng sức sống mới nhận từ Chúa Kitô qua Chúa Thánh Thần.

Theo cách này, hỡi các anh chị em, hỡi các đôi vợ chồng và cha mẹ, Ðức phu quân ở với các bạn. Các bạn biết rằng Ngài là Chúa chiên lành và các bạn biết rõ tiếng Ngài. Các bạn biết Ngài dẫn các bạn đến đâu, các bạn biết Ngài đấu tranh để dẫn các bạn vào những đồng nội ở đó các bạn gặp được sự sống, sự sống dồi dào, Ngài chống những con sói háu ăn luôn sẵn sàng xé xác bầy chiên bằng cái mõm của chúng: bầy chiên là các người chồng người vợ, người con trai con gái, mọi thành phần gia đình các bạn. Bạn biết rằng Chúa chiên lành, Ngài đã sẵn sàng hiến mạng vì đoàn chiên (Ga 10, 11). Ngài dẫn các bạn qua những con đường không phải là gồ ghề và đầy cạm bẫy những ý thức thế hệ ngày nay, Ngài nhắc lại chân lý toàn vẹn cho thế giới hôm nay, cũng như khi xưa Ngài nói với người Biệt phái, hay khi Ngài loan báo cho các tông đồ, rồi các ông lại loan báo cho thế giới, công bố cho những người thời đại các ông, cả Do thái cả Hy lạp. Các môn đệ ý thức rõ răøng Chúa Kitô đã đổi mới tất cả, con người đã nên "tạo vật mới": không còn Do thái hay Hy lạp, không còn nô lệ hay người tự do, không còn nam hay nữ, mà tất cả "nên một"trong Ngài (Gl 3, 28) mặc lấy phẩm giá nghĩa tử của Thiên Chúa. Ngày lễ Ngũ tuần, con người này đã nhận Thánh Thần yên ủi, Thánh Thần chân lý;như vậy là khởi đầu dân mới của Thiên Chúa tức là giáo hội tiền dự vào trời mới đất mới (Kh 21, 1).

Các tông đồ, ban đầu e ngại về hôn nhân &gia đình, sau đó nên can đảm>Các Ngài đã hiểu hôn nhân &gia đình tạo nên ơn gọi thật từ chính Thiên Chúa ban, tạo nên việc Tông đồ, Tông đồ giáo dân, họ giúp việc biến dạng mặt đất và canh tân thế giới, các tạo vật và cả nhân loại.

Các gia đình thân mến, các bạn phải can đảm, luôn sẵn sàng làm chứng niềm hy vọng ở trong các bạn (1Pr 3, 15), vì niềm hy vọng đã được giâm trong lòng các bạn bởi chính Chúa Chiên lành nhờ Tin mừng. Các bạn phải sẵn sàng theo Chúa Kitô tới đồng noiä cho sự sống và chính Ngài đã chuẩn bị bởi mầu nhiệm vượt qua, tử nạn và phục sinh của Ngài.

Các bạn đừng sợ liều ! Sức mạnh của Thiên Chúa mạnh hơn các khó khăn của các bạn nhiều. Hiệu quả của Bí tích Giao hoà-như các Giáo phụ đã gọi thật đúng – là Bí tích "Rửa lần thứ hai" lại càng lớn hơn điều ác đang tác động trên thế giới. Nghị lực Chúa ban trong bí tích thêm sức, làm triển nở ơn trong bí tích rửa tội, có nhiều điểm tốt hơn là sự hư mất hiện nay trên thế giới Lại vô cùng lớn lao hơn nữa, là sức mạnh của Bí tích Thánh thể.

Thánh thể thật là Bí tích diệu huyền ! Trong bí tích này Chúa Kitô ban chính mình làm của ăn của uống như nguồn sức mạnh cứu độ. Ngài để chính mình lại cho ta để chúng ta có sự sống và sự sống dồi dào (Ga 10, 10): Sự sống trong Ngài mà Ngài ban cho ta qua ơn Thần trí của Ngài, trao ban khi sống lại vào ngày thứ 3 sau khi Ngài chịu chết. Quả vậy, đối với ta, Thánh thể là sự sống đến từ Ngài. Hỡi các đôi bạn, các Cha mẹ, các gia đình, Thánh thể dành cho các bạn. Ngài đã chẳng lập Bí tích Thánh Thể trong bối cảnh gia đình trong bữa tối sau hết sao? Khi các bạn gặp nhau để dùng bữa và kết hợp với nhau, thì Chúa Kitô ở trong các bạn. Hơn thế, Ngài là Emmanuel. Thiên Chúa ở cùng chúng ta, khi các bạn gần bàn Thánh thể. Có thể là, như tại Emmaus, ta chỉ nhận ra Ngài "khi bẻ bánh" (Lc 24, 35). Cũng có thể Ngài đứng ngoài cửa, Ngài gõ cửa, chờ mở cửa để vào và dùng bữa với ta (Kh 3, 20). Bữa tiệc ly của Ngài và những lời đọc lúc ấy còn giữ nguyên sức mạnh và nguyên sự khôn ngoan của hy lễ thập gía. Không có sức mạnh hay khôn ngoan nào mà các Cha mẹ có thể nhờ đó mà giáo dục con cái và chính mình. Sức mạnh giáo dục của Thánh thể đã được kiện chứng qua nhiều thế hệ và nhiều thế kỷ.

Chúa Chiên lành ở khắp nơi với chúng ta cũng như xưa tại Cana xứ Galilêa, là bạn trong các đôi bạn trao thân cho nhau suốt đời, cũng thế Chúa Chiên lành hôm nay ở với các bạn như lý do hy vọng, sức mạnh của cõi lòng, nguồn vui thoả luôn mới mãi và là dấu chỉ chiến thắng của "văn minh tình thương ". Chúa Giêsu là Chúa chiên lành hằng nhắc nhủ ta: "Anh em đừng sợ, Thầy ở cùng anh em. Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28, 20). Do đâu mà có sức mạnh ấy? Ôi, Lạy con Thiên Chúa, do đâu mà chắc được Chúa ở với chúng con, dù họ đã giết Chúa và Chúa đã chết như mọi con người? Từ đâu có niềm chắc chắn ấy? Vị Thánh ký viết: "Ngài yêu họ đến cùng" (Ga 13, 1). A, Chúa, Chúa yêu chúng con, Chúa là Ðầu tiên và Cuối hết, là Hằng sống, Chúa đã chết nhưng bây giờ Chúa sống mãi mãi (Kh 1, 17-18).

 
Mầu Nhiệm cao cả
 
19. Thánh Phaolô tóm tắt vấn đề đời sống gia đình trong thành ngữ "mầu nhiệm cao cả" (Eph 5, 32). Khi Ngài viết cho tín hữu Ephêsô, về "mầu nhiệm cao cả", dù điều ấy đã có trong sách Sáng thế và trong truyền thống Cựu ước, Ngài cũng trình bày tổ chức mới, và được khai triển thêm trong huấn quyền của giáo hội.

Giáo hội công bố rằng hôn nhân, như bí tích giao ước giữa đôi vợ chồng, là "mầu nhiệm cao cả" vì trong hôn nhân, diễn tả tình yêu phu thê của Chúa Kitô và giáo hội. Thánh Phao lô viết: Hỡi các người chồng, hãy yêu vợ mình, như Chúa Kitô đã yêu thương giáo hội;Ngài đã bị nộp vì giáo hội, để thánh hoá và thanh tẩy giáo hội bằng dội nước và có đọc lời kèm theo (Eph 5, 25-26). Ở đây Thánh tông đồ nói về bí tích Rửa tội, mà thư Roma nghiên cứu rộng rãi, trình bày như tham dự vào sự chết của Chúa Kitô để rồi chia phần sự sống của Ngài (Rm 6, 3-4). Qua bí tích thanh tẩy, người tín hữu sinh ra như một người mới. Vì bí tích này có quyền thông ban sự sống mới, sự sống của Thiên Chúa. Mầu nhiệm của "Thiên Chúa –làm người" tóm lại cách nào đó trong biến cố Rửa tội. "Chúa Kitô –Giêsu Chúa chúng ta, con Thiên Chúa tối cao trở nên Con của phàm nhân, để rồi con người ta được trở nên con cái Thiên Chúa", như Thánh Irenêô, và cùng với Ngài, nhiều Giáo phụ Tây phương, Ðông phương đã nói (44).

Cho nên Ðức Phu Quân là chính Thiên Chúa đã làm người. Trong cựu ước, Ðức Chúa tự xưng là phu quân của Israel dân tuyển chọn: Một phu quân dịu dàng nhưng yêu sách, ganh ghen những trung thành. Mọi sự phản bội, mọi sự bỏ cuộc, mọi sự thờ ngẫu tượng của Israel được các ngôn sứ diễn tả một cách có kịch tích gợi ý, không tắt nổi tình yêu mà Thiên Chúa – Phu quân "yêu (họ) cho tới cùng" (Ga 13, 1).

Khẳng định và hoàn tất việc hiệp thông như phu thê giữa Thiên Chúa và dân Ngài được thực hiện trong Chúa Kitô, trong Giao ước mới. Chúa Kitô bảo đảm với ta rằng phu quân ở với ta (Mt 9, 15). Ngài ở với tất cả chúng ta, Ngài ở với giáo hội. Giáo hội trở nên Hiền thê, hiền thê của Chúa Kitô. Hiền thê mà thư Ephesô nói đến, hiện diện nơi bất cứ người nào được rửa tội và hiền thê ấy như một người tự trình diện trước phu quân của mình. Ngài đã "yêu giáo hội, Ngài đã tự nộp vì giáo hội …vì Ngài muốn giáo hội rực rỡ, không tỳ vết, không nhăn, không có gì xấu, nhưng thánh thiện, tinh tuyền" (Eph 5, 25-24). Tình yêu mà Ðức phu quân "yêu đến cùng"giáo hội của Ngài, mạnh đến nỗi giáo hội luôn luôn thánh thiện cách mới mẻ, trong các thánh nhân của giáo hội, dù giáo hội vẫn gồm nhiều tội nhân. Các tội nhân, "các thu thuế và gái điếm"cũng được kêu gọi tới thánh thiện, như chính Chúa Kitô làm chứng trong tin mừng (Mt 21, 31). Tất cả được gọi làm nên giáo hội vinh quang, thánh thiện, tinh tuyền, Ðức Chúa phán: "Các ngươi hãy nên thánh thiện, vì ta là Thánh" (Lv 11, 44; 1Pr 1, 16) đó là chiều kích cao sâu nhất của "mầu nhiệm cao cả", là ý nghĩa thâm sâu của ơn bí tích trong giáo hội, ý tưởng sâu thẳm nhất của bí tích rửa tội và bí tích Thánh thể. Chính là những hoa quả của tình yêu mà đức phu quân "đã yêu đến cùng";tình yêu hằng trải rộng, bằng cách lo cho mọi người càng ngày càng tham dự vào sức sống thần linh của Ngài.

Sau khi nói: "Hỡi các người chồng, hãy thương yêu vợ" (Eph 5, 25), Thánh Phao lô nói thêm ngay, một cách còn mạnh mẽ hơn: "cũng vậy, các ông chồng phải thương vợ mình như yêu chính thân mình. Yêu vợ là yêu mình. Vì không ai ghét thân xác mình: Người ta nuôi nó, săn sóc nó. Chính đó là điều Chúa Kitô làm cho giáo hội: Chúng ta không là chi thể của thân thể Ngài sao?" (Eph 5, 28-30) và Thánh Tông đồ khuyên các đôi vợ chồng bằng những lời: "Hãy phục tùng nhau trong niềm kính sợ Chúa Kitô" (Eph 5, 21).

Chắc chắn đây là lối diễn tả mới về chân lý ngàn đời cho hôn nhân &gia đình theo ánh sáng Tân ước. Chúa Kitô đã mặc khải chân lý này trong Tin mừng, qua sự hiện diện của Ngài tại Cana ở Galilêa, qua lễ hy sinh Ngài trên Thập gía và qua các Bí tích trong giáo hội Ngài. như vậy đôi vợ chồng tìm thấy trong Chúa Kitô một qui chiếu cho tình yêu phu thê của họ. Nói về Chúa Kitô phu quân của giáo hội, Thánh Phaolô một cách loại suy dựa vào tình yêu phu thê;Ngài nhắc đến sách Sáng thế: "người nam rời bỏ cha mẹ và luyến ái vợ mình, và cả hai nên một xương thịt" (St 2, 24). Ðây là "mầu nhiệm cao cả" của "Tình yêu muôn thuở đã hiện diện trong tạo dựng, được mặc khải trong Chúa Kitô và trao phó cho giáo hội";Thánh Tông đồ nhắc lại: "mầu nhiệm này có tầm mức lớn;tôi muốn nói rằng mầu nhiệm ấy áp dụng vào Chúa Kitô và giáo hội" (Eph 5, 32). Cho nên ta không thể hiểu giáo hội như thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô, như dấu chỉ Giao ước con người với Thiên Chúa trong Chúa Kitô, như bí tích phổ quát ơn cứu độ, mà không qui chiếu vào "mầu nhiệm cao cả", trong tương quan với tạo dựng con người, Có nam có nữ, và kêu gọi cả hai tới tình yêu phu thê, làm cha làm mẹ. "Mầu nhiệm cao cả", là Giáo Hội và loài người trong Chúa Kitô, không hiện hữu mà không có "mầu nhiệm cao cả" được diễn tả trong sự việc nên "một xương thịt" (coi St 2, 24; Eph 5, 31-32) tức là thực tại hôn nhân và gia đình.

Chính gia đình là mầu nhiệm cao cả về Thiên Chúa, như "Giáo Hội tại gia", gia đình là hiền thê Chúa Kitô. Giáo Hội phổ quát, và trong đó, mỗi Giáo Hội riêng, được tỏ ra trực tiếp hơn, mình là hiền thê Chúa Kitô, trong Giáo Hội tại giavà trong tình yêu được sống nơi đó: tình yêu vợ chồng, tình yêu cha mẹ, tình yêu anh em, tình yêu một cộng đồng những con người và những thế hệ. Tình yêu con người có đề cập được chăng, nếu không có phu quân và không tình thương mà Ngài đã yêu ta trước và yêu tới cùng? chỉ khi họ tham dự tình yêu nàyvà "mầu nhiệm cao cả" này mà đôi bạn mới có thể yêu "tới cùng": hoặc là họ nên những người dự vào tình yêu này, hoặc là họ không biết sâu sắc tình yêu là gì và những yêu sách của tình yêu triệt để tới đâu. Ðiều ấy chắc chắn tạo cho họ một mối nguy hiểm trầm trọng.

Giáo huấn của thư Ephesô, qua ý nghĩa sâu xa và thế giá luân lý của thư, làm ta ngạc nhiên. Khi chỉ đến hôn nhân, và gián tiếp là gia đình, như một "mầu nhiệm cao cả" quy chiếu vào Chúa Kitô và Giáo Hội, Thánh Phaolô tông đồ có thể nói lại một lần nữa điều Ngài đã nói với những người chồng: "mỗi ông hãy yêu vợ như chính mình". Ngài lại tiếp: " còn người vợ hãy tôn kính chồng mình" (Eph 5, 33). Kính trọng vì bà yêu và biết mình được yêu. Chính vì tình yêu này mà đôi vợ chồng mới trao ban cho nhau. Trong yêu thương có lòng biết nhìn nhận phẩm giá nhân vị của người kia và tính duy nhất vô song: quả vậy, xét là con người, mỗi người đã được Thiên Chúa chọn vì chính họ (45), trong hết các tạo vật trên trái đất;tuy nhiên, bằng một hành vi ý thức và trách nhiệm, mỗi người đã trao ban chính mình một cách tự do cho người kia và cho con cái, những con cái được tiếp nhận từ Thiên Chúa. Thánh Phaolô tiếp tục khuyên nối lời khuyên ấy một cách ý nghĩa vào điều răn thứ bốn: " hỡi các người con, hãy yêu mến cha mẹ, trong Chúa; đó chính là "Hãy thảo kính cha mẹ"; đó là điều răn thứ nhất mà lời hứa được liên kết "để cho ngươi được khoẻ mạnh và sống lâu trên trái đất" – còn các bậc cha mẹ, đừng làm chán nản con cái mà hãy giáo dục chúng, dùng việc sửa dạy, lời răn đe cảm hứng từ Thiên Chúa" (Eph 6, 1-4). Cho nên Thánh Phaolô thấy giới răn thứ bốn có tiềm tàng sự cam kết mặc nhiên phải tôn trọng lẫn nhau giữa vợ chồng, giữa cha mẹ con cái, nhìn nhận trong giới răn ấy nguyên tắc cố kết gia đình.

Tổng hợp tài tình của Thánh Phaolo vào chủ đềâ "mầu nhiệm cao cả", một nghĩa nào đó, được trình bày như tóm lược (summa) Giáo huấn về Thiên Chúa và con người ta, Giáo huấn mà Chúa Kitô đã mang đến hoàn hảo. Không may, tư tưởng tây phương, với sự phát triển thuyết duy lý hiện nay, đã dần dần xa lánh giáo huấn ấy. Triết gia đã phát biểu nguyên tắc của "cogito, ergo sum" "tôi suy tư, vậy tôi có", cũng đã ghi dấu vết trên quan niệm hiện đại về con người cái tính song đấu làm nó nổi rõ. Ðặc tính của duy lý là triệt để đặt đối lập, nơi con người, tinh thần với thể xác, thể xác với tinh thần. Trái lại, con người là một nhân vị trong thể thống nhất cả thể xác lẫn tinh thần (46) xác không thể hạn hẹp về vật chất thuần tuý: đó là thân xác "có tinh thần", cũng như tinh thần gắn liền với xác đến nỗi có thể đánh giá là tinh thần "nhập thể". Nguồn phong phú nhất để biết thân xác, là Ngôi Lời đã hoá thành xác phàm. Chúa Kitô mạc khải con người cho con người (47). Khẳng định này của CÐ Vatican II, một nghĩa nào đó, là câu đáp được chờ mong từ lâu, mà Giáo Hội trả lời cho thuyết duy lý hiện đại.

Câu đáp này có tầm quan trọng căn bản để hiểu gia đình, đặc biệt trong bối cảnh văn minh hiện đại nó như thể đã từ chối là "Văn minh tình thương", trong nhiều dịp, như tôi đã nói. Thời nay, tiến bộ trong sự hiểu biết thế giới vật chất và tâm lý con người thật là đáng kể, nhưng trong những gì liên quan chiều kích thân mật nhất, chiều kích siêu hình, con người ngày nay phần lớn vẫn là một hữu thể mà chính mình không rõ; do đó, gia đình vẫn là thực tại còn bị hiểu sai, chuyện đó xảy ra vì người ta xa cách "Mầu nhiệm cao cả" mà Thánh Tông Ðồ nói tới.

Phân ly tinh thần khỏi thân xác nơi con người, có hậu quả là làm vững xu hướng xử lý thân xác con người, không theo những phạm trù xác "giống như Thiên Chúa cách đặc biệt", mà theo những phạm trù xác "giống như mọi vật thể khác hiện diện trong thiên nhiên, thân xác mà con người dùng như dụng cụ để sinh hoạt nhằm sản xuất những của cải để tiêu thụ. Nhưng tất cả có thể hiểu ngay rằng áp dụng cho con người những tiêu chuẩn như thế là thực sự che giấu nhiều nguy hiểm to lớn. Một khi thân xác con người, được coi độc lập với tinh thần và tư tưởng, bị sử dụng như dụng cụ y như thân xác động vật - đây là trường hợp như điều khiển trên các phôi và các thai nhi, chẳng hạn – người ta đi tới sự sa đoạn luân lý, không thể tránh.

Trước một viễn ảnh nhân sinh như vậy, gia đình đến chỗ phải sống các kinh nghiệm một thuyết Manichêo mới, theo nó xác và tinh thần luôn đối lập nhau "xác không sống nhờ tinh thần, và tinh thần không làm sống động xác. Như vậy con người không còn sống như một nhân vị, một chủ thể. Mặt dầu những chủ ý và những tuyên ngôn trái nghịch, con người trở nên một đồ vật, chẳng hạn, theo hướng này, văn minh tân manichêo đưa tới chỗ coi tính dục con người như lãnh vực điều khiển và khai thác, hơn là một thực tại của sự ngạc nhiên nguyên thuỷ, vào bình minh sáng tạo, đã khiến ông Adam phải kêu lên khi trông thấy bà Evà: "Ðây là xương của xương tôi, và thịt của thịt tôi" (St 2, 23). Ðó là sự ngạc nhiên mà ta còn thấy vang âm trong lời sách Nhã Ca: "Em ơi, em làm ta mất hướng; người yêu ơi, em làm ta mất hướng duy bởi cái nhìn của em" (Nh. c 4, 9). Chao ôi, nhiều quan niệm hiện nay khác xa với sự hiểu sâu xa nam tính nữ tính được Thiên Chúa mặc khải biết bao! Mặc khải cho ta thấy trong tính dục con người một sự phong phú về nhân vị nó được đầy giá trị trong gia đình và cũng diễn tả ơn gọi sâu sắc trong việc giữ bậc trinh khiết và trong bậc độc thân vì nước Thiên Chúa.

Thuyết duy lý hiện đại không chịu được mầu nhiệm. Nó không chấp nhận mầu nhiệm con người có nam có nữ, cũng chẳng muốn nhìn nhận rằng chân lý đầy đủ về con người, đã được mặc khải nơi Chúa Giêsu Kitô. Ðặc biệt nó không chấp nhận "mầu nhiệm cao cả" được loan báo trong Thư Ephêsô, mà lại còn tấn công triệt để. Nếu nó có nhìn nhận, trong một bối cảnh hữu thần mơ hồ nào đó, khả năng và nhu cầu một Ðấng Tối Cao thần thánh nào, nhưng nó vẫn khăng khăng từ chối khái niệm về Thiên Chúa đã làm người để cứu con người. Duy lý họ cho rằng không thể tưởng được rằng Thiên Chúa là Ðấng Cứu Thế, càng không phải là "Ðức Phu Quân" là nguồn khởi nguyên và duy nhất của tình yêu phu thê con người. Duy lý chú giải sáng tạo và ý nghĩa đời người khác hẳn. Nhưng nếu con người thiếu viễn ảnh về Thiên Chúa hằng yêu thương họ và qua Chúa Kitô, gọi họ sống trong Thiên Chúa và với Thiên Chúa, nếu khả năng tham dự "mầu nhiệm cao cả" không được mở cho gia đình, thì còn lại cái gì cho con người, nếu không phải chiều kích thời gian cuộc sống? Còn lại đời này như mảnh đất đấu tranh để sinh tồn, run rẩy tìm lợi nhuận nhất là về kinh tế mà thôi.

"Mầu nhiệm cao cả", bí tích tình yêu và sự sống đã có khơiû đầu trong sáng tạo và tronh cứu chuộc mà Ðấng đảm bảo là Chúa Kitô phu quân, đã không còn bám rễ sâu trong não trạng hiện đại. mầu nhiệm ấy bị đe doạ trong ta và chung quanh ta, ước chi Năm của gia đình, cử hành trong Giáo Hội, trở nên cho các đôi bạn một dịp thuận lợi may mắn khám phá lại và khẳng định mạnh mẽ mầu nhiệm ấy cách can đảm và phấn khởi.
 
Mẹ tình yêu xinh đẹp
 
20. Lịch sử "tình yêu xinh đẹp" bắt đầu lúc Truyền tin, với những lời tuyệt vời mà Thiên thần nói với Ðức Maria được gọi làm mẹ của con Thiên Chúa. Bởi tiếng "vâng" của Ðức Maria, Ðấng là "Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh sáng bởi Ánh sáng", đã trở nên con người. Ðức Maria là mẹ Ngài, mà không ngừng là Trinh Nữ "không biết đến người nam" (x. Lc 1, 34). Làm Mẹ Trinh Nữ, Ðức Mẹ là mẹ của tình yêu xinh đẹp. Chân lý ấy được mặc khải qua lời Tổng Thiên Thần Gabriel, nhưng ý nghĩa đầy đủ sẽ được kiểm nhận và đào sâu dần dần trong Ðức Maria theo Con của Ngài trong cuộc lữ hành Ðức tin (48).

"Mẹ của tình yêu xinh đẹp" được một người theo truyền thống Israel, đã là người bạn đính ước của mẹ trên trần, là Giuse, dòng vua David. Ông có quyền thấy nơi người đính ước của mình một người vợ của mình và người mẹ các con của mình. Nhưng Thiên Chúa có sáng ý can thiệp riêng vào giao ước phu thê này: "Giuse con dòng David, đừng sợ đưa Maria vợ con về nhà con: vì điều được sinh trong Maria là bởi Chúa Thánh Linh (Mt 1, 20). Giuse ý thức lắm, ông tận mắt thấy nơi Maria được thai nghén một sự sống mới không xuất phát từ ông, và vì là người công chính hằng trung thành với Luật xưa, trong hoàn cảnh này, bắt buộc phải ly di, nhưng ông muốn giải hôn một cách bái ái (x. Mt 1, 19). Thiên thần Chúa cho ông biết làm như vậy không phù hợp với ơn gọi mình và ngược với mối tình đã liên kết ông với maria. Tình phu thê đối với nhau, để "là tình đẹp" đầy tròn, đòi Giuse đón nhận Maria và người con ấy về mái nhà Nagiareth. Giuse vâng nghe sứ điệp Thiên Chúa và hành động như đã truyền cho mình (x. Mt 1, 24). Cũng chính nhờ thánh Giuse mà mầu nhiệm nhập thể và cũng mầu nhiệm ấy là mầu nhiệm Thánh Gia, được ghi sâu trong tình yêu phu thê của người nam và người nữ và gián tiếp trong phổ hệ cả gia đình nhân loại. Ðiều mà mai ngày Thánh Phaolô gọi là "mầu nhiệm cao cả", tìm được trong thánh gia một biểu hiện cao nhất, gia đình như vậy là thật sự có vị trí ở trung tâm Tân Ước.

Ta có thể nói rằng lịch sử "tình yêu xinh đẹp" một nghĩa nào đó đã bắt đầu với đôi vợ chồng đầu tiên trong nhân loại, tức là với ông bà Ađam-Evà. Cơn cám dỗ hai ông bà thuận theo và tội nguyên tổ từ đó xuất phát, cũng không làm hai ông bà thiếu hẳn khả năng của "tình yêu xinh đẹp". Ta hiểu điều ấy, chẳng hạn khi đọc trong sách Tôbia rằng đôi vợ chồng Tôbia-Sara để biểu lộ ý nghĩa việc phối hợp của mình, đã quy chiếu về tổ tông Adam-Evà (coi Tb 8, 6). Trong tân ước thánh Phaolô cũng làm chứng điều ấy khi nói về Chúa Kitô như Ađam mới (1Cor 15, 45): Chúa Kitô không đến kết án Ađam-Evà tiên tổ mà đến cứu các vị; Ngài đến canh tân điều vốn có trong con người là hồng ân của Thiên Chúa những gì trong con người hằng tốt lành, hằng xinh đẹp, và tạo nên cái nền của tình yêu xinh đẹp. Lich sử "tình yêu xinh đẹp" một nghĩa nào đó là lịch sử cứu độ con người.

"Tình yêu xinh đẹp" luôn có nguồn từ sự tự-mặc-khải nhân vị. Trong tạo dựng, bà Evà tỏ mình cho ông Ađam, và ông Ađam tỏ mình cho bà Evà. Suốt dòng lịch sử, các thiếu phụ tỏ mình cho chồng họ, các đôi vợ chồng trẻ nói với nhau: "Hai ta sẽ chung bước trên đường đời" như vậy là bắt đầu gia đình như kết hiệp hai người, và theo ơn bí tích, như một cộng đoàn mới trong Chúa Kitô. Ðể thật sự đẹp, tình yêu phải là hồng ân của Thiên Chúa, được Chúa Thánh Thần tháp vàotrong lòng người và luôn được nuôi dưỡng trong họ (x. Rm 5, 5). Giáo Hội biết rõ điều ấy, đã xin Chúa Thánh Thần xuống trong lòng mọi người trong bí tích Hôn nhân. để cho "tình yêu xinh đẹp" hiện hữu thực sự, tức là trao ban của người cho người, tình yêu ấy phải phát xuất từ đấng đã là hồng ân và là nguồn mọi sự trao ban.

Ðã có như thế trong Tin Mừng cho Ðức Maria và thánh Giuse, ngay bên thềm Tân Ước, đã sống "tình yêu xinh đẹp" bằng cảm nghiệm chính điều mà sách Nhã Ca diễn tả. Thánh Giuse suy nghĩ và nói với Ðức Maria: "em yêu của tôi, bạn tình tôi" (x. Nhc 4, 9). Ðức Maria mẹ Thiên Chúa, chịu thai bởi Chúa Thánh Thần, từ ngài sinh ra "tình yêu xinh đẹp", tình yêu này được Tin Mừng tế nhị đặt vào khuôn "mầu nhiệm cao cả".

Khi ta nói đến tình yêu xinh đẹp, ta nói đến "vẻ đẹp xinh": đẹp xinh của tình yêu, đẹp xinh của con người đã nhờ Chúa Thánh Thần mà có thể có tình yêu xinh đẹp như thế. Ta nói đến vẻ đẹp của người nam, của người nữ, vẻ đẹp của họ như anh em, như đính hôn, như bạn tình. Tin mừng không những soi sáng mầu nhiệm "tình yêu xinh đẹp" mà còn soi sáng mầu nhiệm sâu xa vẻ đẹp từ Thiên Chúa mà đến như tình yêu. Chính từ Thiên Chúa mà người nam người nữ tới, họ là những nhân vị được gọi trở nên trao ban cho nhau. Từ hồng ân nguyên khởi của Chúa Thánh Thần, "Ðấng ban sự sống, phát xuất sự trao ban cho nhau của cuộc đời làm chồng làm vợ, như ơn được làm anh làm em.

Tất cả những điều ấy được kiện chứng trong mầu nhiệm Nhập thể, đã trở thành người nét đẹp mới trong lịch sử loài người, nét đẹp đã cảm hứng cho biết bao tác phẩm nghệ thuật. Sau thời gian rõ ràng cấm hẳn dùng hình ảnh mà diễn tả Thiên Chúa vô hình, (Tl 4, 15-20), kỷ nguyên Kitô giáo lại khởi sự dùng nghệ thuật diễn tả đấng Thiên Chúa làm người, diễn tả Ðức Maria mẹ Chúa, diễn tả thánh Giuse, các Thánh trong cựu ước cũng như tân ước, nói chung, tất cả thụ tạo được Chúa Kitô cứu chuộc; như vậy Giáo Hội khai nguyên mối tương quan mới với giới văn hoá nghệ thật. Ta có thể nói quy điểm mới của nghệ thuật quan tâm đến chiều kích sâu xa của con người và tương lai, bắt đầu từ mầu nhiệm Nhập thể của Chúa Kitô, khi cảm hứng theo những mầu nhiệm đời của Chúa: sinh ra tại belem, sống ẩn dật tại Nagiareth, sứ vụ công khai, đồi Gôlgotha, phục sinh, trở lại trong vinh quang. Giáo Hội ý thức rằng việc Ngài hiện diện nơi trần thế ngày nay, và đặc biệt là sự đóng góp mà sự hiện diện ấy mang lại, để làm cho giá trị phẩm giá hôn nhân và gia đình, những việc ấy gắn liền vào phát triển văn hoá; Giáo Hội coi sóc đúng lý công việc ấy. Vì thế mà Giáo Hội hết sức chú ý đến việc hướng dẫn các phương tiện truyền thông xã hội, có nhiệm vụ đào tạo công chúng, chứ không chỉ là thông tin (49). Biết rõ ảnh hưởng sâu rộng của các phương tiện ấy, Giáo Hội không nản chí bảo cho các chuyên gia về thông tin phải canh chừng chống lại các nguy hiểm của việc lèo lái sự thật. quả vậy, có thể có sự thật nào trong phim ảnh, trong tuồng kịch, trong các chương trình phát thanh và truyền hình, nơi đó nổi rõ dâm ô và bạo lực. "Ðó có phải là phục vụ tốt cho sự thật về con người chăng? Ðó là vài câu mà những chuyên viên của các dụng cụ ấy và nhiều nhà trách nhiệm lập thành và thương mại hoá các sản phẩm của họ, không thể tránh né.

Nhờ có suy nghĩ phê bình như thế, văn minh của ta, tuy đang trình ra nhiều mặt tích cực về bình diện vật chất cũng như bình diện văn hoá, lẽ ra phải biết rõ, dưới nhiều phương diện, nó là văn minh bệnh hoạn, đang gây ra những biến thiên sâu xa trên con người, tại sao điều ấy xảy ra? Lẽ phải ở trong sự kiện là xã hội chúng ta đã tách khỏi chân lý đầy đủ về con người, xa rời sự thật về bản chất người Nam người Nữ là những nhân vị. Do đó, xã hội ấy không thể hiểu cho đúng bản chất thực sự của việc trao ban các nhân vị trong hôn nhân, tình yêu có trách nhiệm phục vụ cho tình làm cha làm mẹ, sự cao cả đích thực của việc sinh sản cùng giáo dục con cái. Do đó, có quá đáng không khi bảo rằng các phương tiện truyền thông, nếu không tuân thủ những nguyên tắc luân lý, không phục vụ sự thật trong chiều kích chính yếu của nó chăng? Thảm kịch là thế này: những phương tiện hiện đại của thông giao xã hội đều phải cơn cám dỗ là muốn lèo lái sứ điệp, làm sai lạc chân lý về con người. Hữu thể nhân linh không phải là một thứ hàng mà quảng cáo rêu rao, cũng chẳng phải cái được trình bày bởi phương tiện truyền thông hiện đại. Hữu thể nhân linh còn hơn thế, là một thể thống nhất tâm- thể lý, như hợp chất hồn giác lên một, và như nhân vị. Hữu thể nhân linh càng là người nhờ ơn gọi đến yêu thương hằng đưa con người cả Nam lẫn Nữ vào chiều kích của "mầu nhiệm cao cả"

Ðức Maria đã tới chiều kích này trước tiên, Mẹ đã dẫn Thánh Giuse là bạn vào theo. Cả hai vị nên những mẫu trước tiên của tình yêu xinh đẹp mà Giáo hội không ngừng xin ban ơn ấy cho tuổi trẻ, cho các đôi bạn, cho các gia đình. Mong các bạn trẻ, các đôi vợ chồng, các gia đình cũng đừng chán xin ơn ấy, cầu nguyện theo ý ấy ! Làm sao không nghĩ tới vô số những khách hành hương, già trẻ, đang chạy tới các Thánh điện của Ðức Mẹ và đăm chiêu nhìn dung nhan Mẹ Thiên Chúa, dung nhan các vị trong Thánh gia đang phản ánh vẻ đẹp của Tình yêu mà Thiên Chúa trao tặng con người?

Trong bài giảng trên núi, nói đến điều răn thứ sáu, Chúa Kitô công bố lời sau: "Các ông nghe người xưa nói: đừng phạm tội ngoại tình. Nhưng này, tôi bảo các ông: Ai nhìn phụ nữ mà ước muốn đã phạm trong lòng mình tội ngoại tình với thị (Mt 5, 27-28). Liên hệ với 10 điều răn, vốn chủ ý bảo vệ sự vững bền truyền thống của hôn nhân &gia đình, những lời ấy ghi một bước lên phía trước. Chúa Giêsu đi tới nguồn sinh ra tội ngoại tình: nguồn này ở trong lòng người ta và biểu lộ qua cách nhìn, cách suy tư vốn bị dục vọng lấn lướt. Bởi dục vọng, con người ta có xu hướng chiếm hữu một người khác không thuộc về mình, nhưng thuộc về Thiên Chúa. Tuy nói với người đồng thời cùa Ngài, nhưng Chúa Giêsu nói với người mọi thời đại và mọi thế hệ;Ngài nói nhất là cho thế hệ chúng ta đang sống dưới dấu chỉ một thứ văn minh thiên về tiêu thụ và hưởng lạc.

Tại sao trong diễn từ trên núi, Chúa Giêsu nói mạnh và yêu sách như thế? Câu đáp thật quả là rõ: Chúa muốn bảo đảm sự thánh thiện của hôn nhân &gia đình, Chúa muốn bảo vệ sự thật trọn vẹn về con người và phẩm gía họ.

Chỉ khi theo ánh sáng chân lý này mà gia đình mới có thể hoàn toàn là"mặc khải lớn lao", là khám phá đầu tiên kẻ khác sự khám phá ra nhau của vợ chồng rồi khám phá ra từng con trai con gái do họ phối hiệp sinh ra. Tất cả những gì vợ chồng hứa với nhau-"trung thành với em (anh) trong khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, yêu và tôn trọng em (anh) mọi ngày trong đời tôi"- chỉ có thể có trong chiều kích: tình yêu đẹp xinh". Con người ngày nay không thể học tập được điều ấy, từ những cái mà văn hoá đại chúng ngày nay bao gồm "Tình yêu đẹp xinh" ta học được trong cầu nguyện trước tiên. Thật vậy, cầu nguyện –xin mượn kiểu nói của Thánh Phaolô-bao giờ cũng mang một sự ẩn nấp nội tâm vào với Chúa Kitô trong Thiên Chúa: "Sự sống anh em từ nay được ẩn dật với Chúa Kitô trong Thiên Chúa". (Cl 3, 3). Chỉ trong một sự ẩn nấp như thế, Chúa Thánh Thần mới tác động, vì Ngài là nguồn"tình yêu đẹp xinh". Ngài tuôn tràn tình yêu này không những trong trái tim của Mẹ Maria và Thánh Giuse, mà còn đổ trong lòng những đôi bạn sẵn sàng nghe lời Thiên Chúa và giữ lời ấy (Lc 8, 15). Tương lai của mọi hạt nhân gia đình tuỳ ở "Tình yêu xinh đẹp"này: Tình yêu nhau giữa vợ chồng, tình yêu thương giữa cha mẹ con cái, tình yêu giữa các thế hệ. Tình yêu là nguồn chính thật của hiệp nhất và sức mạnh gia đình.

 
Việc sinh con và nỗi nguy
 
21. Trình thuật vắn tắt về thời thơ ấu của Chúa Giêsu một cách rất ý nghĩa, kể lại cho ta gần như cũng một lúc cả việc sinh ra và nỗi nguy mà Chúa Giêsu phải đối diện ngay rồi. Thánh Luca thuật lại những lời tiên báo do cụ gìa Simeon nói ra, khi hài nhi Giêsu được dâng trong đền thờ cho Thiên Chúa, sau khi hài nhi sinh ra được 40 ngày. Cụ gìa nói đến "ánh sáng" và "dấu vấp phạm", rồi nói riêng lời tiên đoán cho Ðức Maria: "Phần Bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà" (Lc 2, 32-35). Trái lại, Thánh Matthêu nói nhiều về cạm bẫy mà Hêrôdê giương ra cho Chúa Giêsu: được mấy đạo sĩ từ phương đông cho biết là họ đi bái yết vị Vua mới đã sinh ra (Mt 2, 2),

Hêrôdê cảm thấy mình bị đe doạ về quyền lực, và sau khi Ba vua ra đi, Hêrôdê ra lệnh giết các hài nhi, ở thành Belem và vùng phụ cận dưới 2 tuổi. Nhưng Chúa Giêsu thoát khỏi tay Hêrôdê nhờ sự can thiệp đặc biệt của Thiên Chúa và sự chăm sóc lo lắng hiền phụ của Thánh Giuse; Thánh nhân đã đưa hài nhi và mẹ Ngài qua Ai cập tạm trú cho đến khi Hêrôdê chết. Sau đó 3 vị trở về Nazareth thành quê hương, nơi Thánh gia bắt đầu thời kỳ lâu dài sống ẩn dật, đều đặn hoàn thành những bổn phận hàng ngày một cách trung thành và quảng đại (Mt 2, 1-23); (Lc 2, 39-52).

Việc Chúa Giêsu ngay khi mới sinh ra đã phải chịu nhiều đe doạ và nguy hiểm, như một sự hùng biện sứ ngôn. Làm "Hài Nhi"là bị nên "dấu vấp phạm"rồi. Cũng có sự hùng biện sứ ngôn trong việc các anh hài ở Belem, bị giết do lệnh của Hêrôdê, và theo phụng vụ xưa của Giáo hội các em đã tham dự vào sự sinh ra và khổ nạn cứu chuộc của Chúa Kitô (50). Qua cuộc "khổ nạn"của các em, các em hoàn tất"điều còn thiếu cho cuộc đau khổ của Chúa Kitô, đối với thân thể Ngài là Hội thánh" (Cl 1, 24).

Trong tin mừng thời thơ ấu, loan tin sự sống được thực hiện cách lạ lùng trong biến cố sinh ra của Chúa Cứu thế, như vậy được mạnh mẽ, đặt ra trước sự đe doạ chống lại sự sống vốn bao hàm toàn bộ mầu nhiệm Nhập thể và thực tại Thiên –Chúa- làm- người của Chúa Kitô. "Ngôi lời đã làm người" (Ga 1, 14), Thiên Chúa đã trở nên con người. Các Giáo phụ thường nhắc đến mầu nhiệm siêu việt này: "Thiên Chúa đã xuống thế làm người, để cho ta trở nên những Thần thánh" (51). Chân lý đức tin này đồng thời là chân lý về hữu thể con người. Chân lý ấy làm sáng rõ tính cách nặng nề của mọi mưu hại sự sống của trẻ thơ trong lòng mẹ nó. Chính ở đây, người ta đứng đối lập thẳng với "tình yêu đẹp xinh". Chỉ tìm lạc thú, người ta đi đến chỗ giết chết tình yêu, giết chết trái quả tình yêu. Vì cái văn hoá lạc thú, "con có phúc của dạ" (Lc 1, 42), một nghĩa nào đó trở nên"con vô phước".

Làm sao, khi nói đến vấn đề này, không nhắc lại những sai lạc mà người ta, trong nhiều xứ mà người ta gọi là nhà nước"hữu quyền", đã từng quen. Lề luật của Thiên Chúa đối với sự sống con người là rõ ràng và quyết liệt. Thiên Chúa đã truyền: "Ngươi chớ giết người" (Xh 20, 13). Không một nhà làm luật nào có thể khẳng định: Ngươi được phép giết, ngươi có quyền giết, ngươi phải giết. Khốn nỗi, trong lịch sử thế kỷ XX của ta, chuyện đó xảy ra khi người ta nắm được quyền, dù là theo cách dân chủ, nắm được quyền các sức mạnh chính trị khi ra những luật nghịch lại quyền được sống của mọi người, nhân danh những nguyên lý đó thật là sai lạc, như ưu sinh, dân tộc, và nhiều lý do khác. Có một hiện tượng không kém nghiêm trọng, nhất là nó được đồng tình rộng lớn hay đồng ý của công luận;hiện tượng ra luật lệ không còn tôn trọng quyền sống từ khi thành thai. Làm sao có thể theo luân lý mà chấp nhận những luật cho giết con người khi chưa sinh ra nhưng đang sống trong lòng mẹ mình? Thế ra quyền sống là đặc quyền độc quyền của người lớn, từng dùng những quốc hội để đạt những kế hoạch của họ và theo đuổi điều tư lợi cho họ mà thôi.

Chúng ta đứng trước việc đe doạ to lớn đối với sự sống không những của các cá nhân, mà cả nền văn minh nữa. khẳng định rằng mặt nào đó văn minh đã trở nên"văn minh sự chết", được vững lý đáng quan tâm. Lại chẳng là biến cố sứ ngôn, khi việc Chúa sinh ra đã gặp ngay sự đe doạ cuộc sống sao? Ðúng vậy, ngay sự sống của Ðấng vừa là con của người vừa là con Thiên Chúa đã bị đe doạ: Sự sống ấy bị nguy hiểm ngay ở ban đầu đời, và đã chỉ thoát được nhờ phép lạ.

Trong mấy thập niên cuối thế kỷ XX, người ta mong nhận ra một vài triệu chứng yên ủi là các lương tâm đã tỉnh ngộ: người ta nhận ra điều này trong thế giới tư tưởng cũng như công luận. Người ta thấy phát triển, nhất là nơi giới trẻ, một ý thức mới về tôn trọng sự sống từ phút thụ thai;các phong trào bảo vệ sự sống lan rộng (pro life). Ðây là men hy vọng cho tương lai gia đình và toàn nhân loại.
 
"…Các Bạn đã đón nhận Ta"
 
22. Hỡi các bậc vợ chồng và gia đình khắp Thế giới, đức Phu quân ở với các Bạn !Ðó là điều thứ nhất mà Giáo Hoàng muốn nói với các Bạn, trong năm mà Liên hiệp Quốc và Giáo hội dành cho Gia Ðình. "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban con một của Ngài, để cho ai tin kính Người Con ấy, thì không phải hư đi, nhưng được sự sống đời đời. Vì Thiên Chúa đã gửi Con của Ngài xuống thế gian, không phải để phán xét thế gian, mà để thế gian được Ngài cứu độ (Ga 3, 16-17). "Ðiều bởi xác thịt sinh ra, là xác thịt; điều được sinh ra bởi Thần linh là Thần linh…. " Các bạn phải sinh ra từ trên cao (Ga 3, 16-17). Các bạn phải " sinh ra bằng nước và Thánh thần" (Ga 3. 5).

Hỡi các bậc Cha mẹ, chính các bạn là những nhân chứng trước tiên và là thừa tác viên cho việc sinh ra mới này từ Chúa Thánh Thần. Các ông các bà sinh con cái cho quê hương trần thế, đừng quên rằng các ông các bà sinh chúng cho Thiên Chúa. Chúa muốn họ sinh ra bởi Chúa Thánh Thần; Chúa muốn họ nên nghĩa tử của Ngài trong Con một của Ngài, Ðấng đã cho ta "quyền làm con cái Thiên Chúa" (Ga 1, 12). Công trình cứu độ kéo dài mãi trên Thế giới và nhờ Giáo hội thực hiện, tất cả là công việc Con Thiên Chúa, Ðức Phu quân, Ngài lưu truyền cho ta Vương quốc của Chúa Cha và nhắc cho ta là môn đệ Ngài nhớ: "Nước Thiên Chúa ở giữa anh em" (Lc 17, 21).

Ðức tin của ta dạy ta rằng; Chúa Giêsu Kitô, đấng "ngự bên hữu Chúa Cha", sẽ đến phán xét kẻ sống và kẻ chết. Mặt khác, Thánh sử Gioan bảo đảm với ta rằng Chúa Giêsu Kitô được sai đến" không phải để phán xét thế gian, nhưng cho thế gian được Ngài cứu độ" (Ga 3, 17). Như vậy phán xét kia hệ tại điều gì? Chính Chúa Kitô cho câu đáp: "Sự phán xét thế này: ánh sáng đã đến trong thế gian… Ai làm sự thật thì đến cùng ánh sáng, để họ được tỏ rõ rằng việc của họ được làm trong Thiên Chúa" (Ga 3, 19-21). đấy là điều mới đây được nhắc lại trong thông điệp "Veritatis splendor" (52). Như vậy Chúa Kitô là thẩm phán;các hành vi của ngươi sẽ xét xử ngươi theo ánh sáng chân lý mà ngươi biết, chính các công việc sẽ xét xử bậc cha mẹ và bậc con cái. Mỗi người chúng ta sẽ bị xét xử từ những giới răn, kể cả những giới răn mà ta đã nhắc trong lá thư này: giới răn thứ 4, thứ 5, thứ 6 và thư ù9. Nhưng mỗi người sẽ bị xét xử nhất là về tình thương vốn cho các giới răn có ý nghĩa và tổng hợp chúng. "Cuối đời, ta sẽ bị phán xét về yêu thương", Thánh Gioan Thánh Giá nói như vậy (53). Chúa Kitô, là Ðấng Cứu Chuộc và là Phu Quân của nhân loại, "đã chỉ sinh ra cùng chỉ đến thế gian để làm chứng cho sự thật. Ai thuộc sự thật thì nghe tiếng Ngài" (Ga 18, 37). Chính Ngài sẽ là thẩm phán nhưng theo cách mà Ngài đã chỉ, khi nói về chung thẩm (Mt 25, 31-46). Xét đoán của Ngài là xét đoán về tình thương yêu, 1 xét đoán sẽ kiện chứng hẳn sự thật này là đức Phu Quân ở với ta, mà có lẽ ta đã không biết.

Thẩm phán là đức Phu Quân của Giáo hội và của loài người. Vì thế Ngài lên án mà rằng: "Hỡi những người được Cha ta chúc phước, hãy đến đây" Vì Ta đã đói mà anh em cho ăn, Ta khát mà anh em cho uống, Ta là người lạ mà anh em đón tiếp, Ta trần mình mà anh em cho mặc" (Mt 25, 34-36). Bảng liệt kê này có thể dễ dàng ghi dài nữa và sẽ là vô số vấn đề cũng liên quan đến đời sống phu thê và gia đình. Ta sẽ thấy được những lối nói như thế này: "Ta mới là đứa bé chưa sanh ra, mà các anh em đã tiếp nhận và cho Ta được sinh ra. Ta là đứa bé bị bỏ rơi mà anh em nên gia đình cho Ta; Ta là trẻ mồ côi, mà anh em nhận nuôi và dạy dỗ như con". Thêm nữa: "những người làm mẹ nào ngần ngại và đang chịu những áp lực vô lối, anh chị em đã giúp đỡ họ chấp nhận đứa con sắp sinh ra và cho chào đời;anh chị em đã giúp những gia đình đông con, những gia đình đang gặp khó khăn, để giữ lại và nuôi dạy những đứa con mà Thiên Chúa đã ban cho". Ta vẫn có thể tiếp tục với danh sách dài hơn đủ loại, gồm mọi thứ thiện ích thực của luân lý và con người, trong đó vẫn biểu lộ tình yêu. đây là vụ mùa lớn mà Chúa Cứu thế, Ðấng mà Cha đã trao quyền xét xử, sẽ đến thu hoạch: đây là mùa hồng ân và những việc thiện, chín mùi theo ơn làn gió Thánh Thần Ngài không ngừng hành động trong thế giới và trong Giáo hội. Ta hãy cảm tạ Ðấng tác thành mọi thiện hảo.

Tuy nhiên, ta biết rằng trong phán quyết cuối cùng mà Thánh sử Mat thêu kể lại, còn một danh sách khác, nặng nề, kinh khủng: "Hãy giang ra khỏi Ta…, vì Ta đã đói mà các ngươi không cho ăn, Ta đã khát mà các ngươi không cho uống, Ta xa lạ mà các ngươi không tiếp, Ta mình trần mà có người không cho mặc (Mt 25, 41-43). Trong danh sách này cũng vậy, sẽ còn nhiều ứng xử khác trong đó Chúa Giêsu vẫn tự coi là người bị khinh chê. Chẳng hạn như Ngài sẽ đồng hoá với một người vợ hay người chồng bị bỏ rơi, với đứa con đã thành thai mà bị từ chối: "các ngươi đã không tiếp ta!" Lời phán xét ấy vẫn đi dọc nẻo đường lịch sử các gia đình; nó vẫn đi theo đường lịch sử các quốc gia và nhân loại. những lời Chúa nói "các ngươi không đón nhận ta" cũng liên quan đến các định chế xã hội, chính phủ, và các tổ chức quốc tế.

Pascal đã viết rằng "Chúa Giêsu sẽ còn hấp hối đến tận thế" (54). Cuộc hấp hối ở vườn Gethsemari và hấp hối trên đồi Golgotha là đỉnh cao tỏ lộ tình yêu thương. Trong cả hai cơn hấp hối, xuất hiện rõ Ðức Phu Quân hằng ở với chúng ta, vẫn yêu thương ta một cách mới lạ, vẫn "yêu tới cùng" (x. Ga 13, 1). Sự yêu thương ở trong Ngài và từ Ngài đi tới các biên giới lịch sử cá nhân hay gia đình, vượt biên giới lịch sử nhân loại.

Ðến cuối những suy nghĩ này, hỡi Anh chị em, khi nghĩ đến những gì sẽ được công bố trong năm của gia đình từ nhiều diễn đàn, tôi muốn nhắc lại với anh chị em lời thánh Phêrô thưa với Chúa Kitô: "Thầy có những lời ban sự sống đời đời" (Ga 6, 68). Ðồng thời chúng ta nói: Chúa ơi lời Ngài sẽ không qua đi (coi Mc 13, 31) ! Giáo Hoàng có thể nói lên nguyện ước gì cho các bạn sau sự suy nghĩ dài về năm của gia đình đây? Xin chúc anh chị em gặp được mình trong những Lời là "tinh thần và sự sống" ấy (x. Ga 6, 63).
 
Hãy kiên vững trong anh em con người nội tâm
 
23. "Tôi quỳ gối trước mặt Chúa Cha từ Ngài phát sinh mọi tình làm cha làm mẹ. xin Ngài đoái thương trang bị cho anh chị em sức mạnh của Chúa Thánh Thần để kiên vững trong anh chị em con người nội tâm" (Eph 3, 16) Tôi thích đọc hoài những lời này của thánh tông đồ mà tôi đã trưng trong phần thứ nhất là thư này. một nghĩa nào đó, cũng là những lời chủ chốt. Gia đình, tình làm cha làm mẹ, cùng đi song song. Ðồng thời gia đình là lãnh vực đầu tiên nhân bản trong đó đào tạo "con người nội tâm" mà thánh tông đồ nói tới. Làm vững sức mạnh của mình là một hồng ân Chúa Cha, Chúa Con ban cho, trong Chúa Thánh Thần.

Năm của gia đình đặt trước mặt ta và trong Giáo Hội một nhiệm vụ lớn lắm, giống như nhiện vụ liên quan đến gia đình hàng năm hàng ngày, nhưng, trong bối cảnh Năm nay, nó mang ý nghĩa và tầm quan trọng riêng. Chúng tôi đã cử hành năm của gia đình tại Nagiareth trong ngày đại lễ Thánh Gia. Chúng tôi ước mong rằng năm nay sẽ đi hành hương mãi tới nơi hồng ân đã trở nên thánh điện của Thánh Gia trong lịch sử nhân loại. chúng tôi mong làm cuộc hành hương này bằng cách tìm lại được ý thức về gia tài chân lý về gia đình mà từ nguyên khởi vẫn tạo lập nên một trong những kho tàng của Giáo Hội. Ðây là kho báu từ truyền thống phong phú của Cựu ước được hoàn tất trong Tân ước và biểu hiện đầy đủ và tượng trưng trong mầu nhiệm thánh gia trong đó Ðức Phu Quân hoàn tất việc cứu chuộc tất cả các gia đình. chính từ đó mà Chúa Giêsu công bố "tin mừng gia đình". chính từ kho tàng chân lý này mọi thế hệ các môn đệ Chúa Kitô đến lãnh hội. khởi đầu là các Thánh Tông Ðồ mà ta dùng rộng rãi giáo huấn của các vị trong lá thư này.

Vào thời đại ta, kho tàng được khai thác kỹ trong các văn kiện công đồng Vaticano II (55); nhiều phân tích thật hay cũng được khai triển trong nhiều diễn văn Ðức Piô XII dành cho các đôi vợ chồng (56); trong thông điệp Humanae Vitae của Ðức Piô VI; trong những can thiệp vào Thượng Hội Ðồng Giám Mục dành cho gia đình (1980) và trong tông huấn Familiaris Consortio. Tôi đã nói đến những lập trường ấy của Huấn quyền. Nếu hôm nay tôi trở lại vấn đề, là để làm rõ chiều dày và sự phong phú của kho tàng này của chân lý Kitô giáo về con người. tuy nhiên chỉ những chứng từ thành văn không đủ. Những chứng từ sống còn quan trọng hơn nhiều. Ðức Phaolô VI làm cho ta lưu ý rằng "con người hiện đại thích nghe các chứng nhân hơn các bậc thầy, hoặc họ có nghe các thầy thì cũng vì họ là chứng nhân" (57). Nhất là dành cho chứng nhân, mà trong Giáo Hội mà ta thấy trao kho tàng Gia Ðình cho các bậc cha mẹ, cho các cậu các cô, qua gia đình mình, gặp được đường ơn gọi họ làm người, làm Kitô hữu, chiều kích "con người nội tâm" (Eph 3, 16) mà thánh tông đồ đã nói đến, và họ đã đạt tới thánh thiện. Thánh Gia của Chúa đi đầu trong biết bao gia đình thánh thiện khác. Công đồng đã nhắc lại rằng sự thánh thiện là ơn gọi chung các người được rửa tội (58). Vào thời ta, cũng như trong quá khứ, không thiếu những chứng nhân "tin mừng gia đình", dù họ không được biết đến hay dù họ không được phong hiển thánh. Năm của gia đình là dịp thuận lợi để ý thức hơn về việc có và về số lượng những chứng nhân ấy.

Chính qua gia đình mà lịch sử con người được khai rộng, lịch sử cứu độ nhân loại. trong mấy trang này, tôi đã tìm cách chứng minh rằng gia đình ở giữa cuộc chạm trán lớn giữa thiện và ác, giữa sự sống và sự chết, giữa tình thương và tất cả những cái chống lại tình thương. Gia đình được trao phó nhiệm vụ đấu tranh, trước hết toả ra sức mạnh của sự thiện mà nguồn suối ở nơi Chúa Kitô cứu chuộc con người. phải làm sao cho mỗi tổ ấm được hưởng sức mạnh ấy, hầu cho, theo kiểu nói dịp kỷ niệm ngàn năm Kitô giáo tại Balan: gia đình được "mạnh bằng nhờ Thiên Chúa" (59). Ðó là lý do vì sao? Lá thư này đã muốn cảm hứng theo lời khuyên dạy ta gặp trong các thư của thánh Phaolô (1Cor 7, 1-40; Eph 5, 21-6, 9; Cl 3, 25) cùng các thư của thánh Phaolô và thánh Gioan (I P 3, 1-7; Ga 2, 12-17). Dù khác bối cảnh lịch sử và văn hoá, còn biết bao là tương đồng giữa hoàn cảnh các Kitô hữu và gia đình thời ấy với hoàn cảnh các Kitô hữu và Gia đình ngày nay.

Cho nên tôi lên tiếng kêu gọi: lời gọi gửi riêng đến các bạn là những bậc vợ chồng, cha mẹ và con cái. Ðây là lời gọi gửi các Giáo Hội riêng, để hiệp nhất trong giảng dạy chân lý tông đồ; xin gửi chư huynh Giám Mục, gửi các Linh mục, các gia đình dòng tu và những người tận hiến, gửi các phong trào và các hiệp hội giáo dân, gửi tới các anh chị em mà đức tin chung vào Chúa GiêsuKitô đã liên kết chúng tôi với họ, dù chúng ta chưa cảm nghiệm sự hiệp thông đầy đủ như Chúa Cứu thế mong muốn (60); gửi hết mọi người chia sẻ đức tin của Abraham, cùng chúng ta, đang thuộc về cộng đồng rất lớn những người tin kính Ðấng Thiên Chúa duy nhất (61); gửi những người thừa kế các truyền thống thiêng liêng và tôn giáo; gửi hết mọi người nam nữ thiện tâm thiện chí.

Cúi xin Chúa Kitô, Ngài vẫn là một " hôm qua, hôm nay và mãi mãi" (Dt 13, 8) ở cùng chư vị hết thảy, trong khi tôi quỳ gối xuống trước mặt Chúa Cha, từ Ngài phát sinh mọi tình làm cha, làm mẹ và mọi gia đình con người (x. Eph 3, 14-15), và với cũng những lời mà Chúa Kitô đãdâng lên Chúa Cha và đã dạy ta đọc, Xin Chúa Kitô một lần nữa chứng tỏ cho chúng ta thấy tình thương mà Ngài "đã yêu chúng ta cho đến cùng" (Ga 13, 1).

Với sức mạnh của chân lý của Ngài tôi nói với người thời đại chúng ta để họ hiểu sự cao cả các thiện hảo như hôn nhân, gia đình và sự sống. Nỗi hiểm nguy lớn nhất do từ chối tôn trọng những thực tại và thiếu cân nhắc đối với các giá trị tối cao lập nền tảng các gia đình và phẩm giá con người.

Xin Chúa Giêsu nói lại cho ta tất cả những điều ấy với sức mạnh và sự khôn ngoan của Thập giá, cho nhân loại đừng nhượng bộ cơn cám dỗ do "cha sự dối trá" (Ga 8, 44) nó đang đẩy nhân loại hằng thích đi đường rộng rãi thoáng hơn, có vẻ dễ dàng và dễ chịu, nhưng thực sự đầy những cạm bẫy và hiểm nguy! Xin Ngài ban cho ta được luôn luôn theo đấng là "Con Ðường, là Sự Thật và là Sự sống" (Ga 14, 6) !

Thưa các anh chị em, đó là nhiệm vụ các gia đình Kitô giáo, và ưu tư truyền giáo của Giáo Hội, trong suốt năm đầy ân sủng đặc biệt này. cúi xin Thánh Gia là hình ảnh và mẫu mực cho mọi gia đình con người, giúp mỗi người chúng con hành trình theo tinh thần Nagiareth; xin Thánh Gia giúp mỗi gia đình đào sâu sứ mạng mình trong xã hội và trong Giáo Hội bằng cách lắng nghe lời Thiên Chúa, bằng cầu nguyện, bằng chia sẻ huynh đệ cuộc sống! Cúi xin Ðức Maria, mẹ của tình yêu xinh đẹp, và thánh Giuse, đấng bảo vệ Chúa Cứu Thế, hằng luôn luôn phù hộ chúng ta.

Trong những tâm tình ấy tôi chúc lành cho từng gia đình, nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi là Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
 
Ban hành tại Vatican
ngày 02. 02. 1994, lễ Dâng Chúa vào Ðền thờ
Năm thứ 16 Triều Giáo Hoàng của Tôi
Gioan Phaolô II


Tuyên bố của Bộ Giáo lý Đức tin về phẩm giá con người (12/4/2024)

Sứ điệp Phục Sinh Urbi et Orbi năm 2024: Tảng đá đã lăn khỏi mộ (4/4/2024)

Sứ điệp Mùa Chay 2024 Của Đức Thánh Cha Phanxicô: Qua sa mạc Thiên Chúa hướng dẫn chúng ta đến tự do (5/2/2024)

Nhìn lại một số sự kiện nổi bật của đời sống Giáo hội trong năm qua (5/1/2024)

Sứ điệp Giáng Sinh 2023 và phép lành toàn xá Urbi et Orbi (26/12/2023)

ĐTC Phanxicô: Chúa Giêsu mời gọi mọi Kitô hữu mở lòng với Chúa và phục vụ tha nhân (16/12/2023)

ĐTC Phanxicô: Học loan báo Tin Mừng cách sáng tạo và đơn giản của Chúa Thánh Thần (9/12/2023)

Kitô hữu phải lấp đầy các xã hội bi quan bằng niềm vui Tin Mừng (6/12/2023)

Tất cả mọi người đều có quyền đón nhận Tin Mừng của Chúa (27/11/2023)

ĐTC Phanxicô: khi rao giảng Phúc Âm, chúng ta được “Phúc Âm hóa” (10/11/2023)

Công bố Tài liệu làm việc của Thượng Hội đồng Giám mục về Tân Phúc âm hóa (21/6/2012)

Lời cầu nguyện đem ánh sáng vào trong thế giới tối tăm (21/6/2012)

Chân phúc Gioan Phaolô II, vị bảo trợ các gia đình! (17/6/2012)

Gia đình trong ý định của Thiên Chúa (13/6/2012)

Dạy giáo lý không chỉ là dạy giáo thuyết nhưng trước hết là kinh nghiệm về Thiên Chúa (28/5/2012)

Tóm lược chương năm học thuyết xã hội Công Giáo:'Gia đình, tế bào sống động của xã hội' (23/5/2012)

Tâm tư của Đức Tổng Giám Mục Gomez, cuộc tranh luận về hôn nhân đã bỏ quên nhu cầu của trẻ em (23/5/2012)

Những suy tư của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô VXI về lễ Phục Sinh (13/5/2012)

Tài liệu chính thức của các Giám Mục Hoa Kỳ về các kết hiệp đồng tính (13/5/2012)

Thinh lặng để truyền thông: Một cách đọc Sứ điệp Truyền Thông 2012 của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI (13/5/2012)
 Các tin khác:  1   2   3   4   5   Trang kế  Trang cuối
 
 
  Trang chủ Giáo hội Gia đình Bồi dưỡng tâm linh Mục vụ Chuyên đề Thông tin diễn đàn