CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN - NĂM B
XIN CHO CON ĐƯỢC THẤY
Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe kể lại việc Đức Giêsu chữa lành cho anh mù Bartimê, và anh hớn hở theo Chúa lên đường.
Người ta thường bảo, có đau mắt mới biết thương người mù. Mù có nghĩa là bị loại khỏi thế gian màu sắc và hình tượng. Người mù không thấy màu sắc, vì trước mắt anh luôn luôn bị bóng đêm che phủ. Do không thấy, nên đối với người mù, xinh đẹp như hoa hậu, hay xấu xí như Thị Nở thì cũng như nhau! Dĩ nhiên, một người khuyết tật như thế không được xã hội coi trọng, anh sống nhờ của bố thí, anh ở bên vệ đường, đang khi đám đông náo nhiệt vây quanh Chúa, và theo Chúa lên đường.
Ngược lại với đám đông sáng mắt, anh mù không nhìn thấy Đức Giêsu Nazareth, anh chỉ nghe người ta đồn thổi về Ngài. Tuy nhiên, nếu những cặp mắt sáng chỉ nhận ra Đức Giêsu là một lang y tài giỏi, một ngôn sứ xuất hiện trước đám đông, thì Bartimê dẫu mù lòa, anh lại nhìn xa trông rộng hơn, anh gọi Đức Giêsu bằng tước hiệu “Con Vua Đavít”, nghĩa là Đấng Mêsia. Đấng Cứu độ, anh tin vào quyền năng và tình thương của Đức Giêsu, nên từ bên vệ đường anh cất tiếng kêu van, dẫu rằng, lời kêu van ấy bị những tiếng quát nạt phũ phàng muốn dập tắt.
Điều kỳ diệu là giữa đám đông ngăn cách Bartimê với Đức Giêsu, giữa những ồn ào náo nhiệt xung quanh. Chúa vẫn nghe thấy tiếng anh mù, Ngài dừng bước, đoạn cho gọi anh đến. Cho hay, giữa đám đông, Đức Giêsu không gọi ai, trừ ra anh chàng mù ngồi bên vệ đường; Chúa cũng chẳng đợi chờ ai, chỉ chờ đợi người khiếm thị cô đơn, bị bỏ rơi đến với Ngài. Nghe Chúa gọi, Bartimê liền vất chiếc áo choàng, vốn vừa là vật che thân, vừa là phương tiện để nhận của bố thí mà đến cùng Đức Giêsu, đến cùng Chúa với một niềm tin mạnh mẽ, và niềm tin ấy đã không luống công vô ích. Đức Giêsu đã mở cho anh đôi mắt thân xác, hơn nữa Ngài còn mở cho anh cặp mắt đức tin, giúp anh thoát khỏi vị trí bên vệ đường để đi theo Chúa lên Giêrusalem, nơi Ngài sẽ chịu treo trên thập giá.
Kinh nghiệm cho thấy, trong cuộc sống, có nhiều loại mù khác nhau:
· Trước hết là mù thể lý, đôi mắt bị lòa, không nhìn thấy ngoại giới.
· Thứ đến là mù tri thức. Td: Mù chữ, mù vi tính, mù ngoại ngữ.
· Cuối cùng, là mù quáng.
Khi bị mù thể lý, hoặc mù tri thức, người ta nhìn nhận rằng mình bị mù, và cố gắng tìm cách thoát mù. Td: mù thể lý: đi khám bệnh, uống thuốc hoặc giải phẫu thì sẽ được sáng mắt. Khi bị mù tri thức, tôi cố gắng dành thời giờ tham dự các lớp học, thì sẽ được xóa mù. Riêng mù quáng thì khó khăn hơn: Tôi bị mù, không nhận ra sự thật, nhưng tôi lại khẳng định rằng mình sáng, mình hiểu biết, nên không cần đến người khác góp ý, chỉ dẫn cho tôi. Rút cục, mù vẫn hoàn mù!
Có lẽ trong chúng ta, không ai bị mù thể lý hoặc mù tri thức, nhưng mù quáng thì lại khác. Tính ích kỷ khiến tôi bị mù, vì không thấy được nhu cầu của anh em. Tính vô cảm khiến tôi bị mù, nên không biết chia sẻ vui buồn với người khác. Lòng kiêu căng tự mãn, khiến tôi bị mù, vì tôi không thấy khuyết điểm của mình, nhưng chỉ thấy khuyết điểm của người khác. Óc thành kiến khiến tôi bị mù vì tôi không thấy sự thật. Quan niệm duy vật khiến tôi bị mù, vì tôi không thấy được những giá trị thiêng liêng. Do đó, ta hãy không ngừng kêu lên cùng Chúa như anh chàng mù Bartimê: “Lạy Thầy, xin cho con được thấy”. Vì có những lúc ta không thấy, hoặc cố ý không muốn thấy. Có những lúc ta thấy mặt này mà chẳng thấy mặt kia. Lắm khi tôi không đủ sức để ra khỏi sự mù lòa của chính mình.
Mặt khác, một người mù chữ, dù đã được xóa mù, vẫn có nguy cơ bị tái mù, do đó, ta cần phải xin cho mình được thấy luôn, ta phải xin cho mình được Chúa xóa mù suốt đời; bởi vì, chỉ trong ánh sáng của Chúa, ta mới thấy được ánh sáng cho đời mình.
Cuối cùng, đời sống của ta có nhiều bóng tối vì ta chưa đủ niềm tin vào Chúa; đời sống của ta bế tắc, vì ta chưa đặt niềm hy vọng nơi Chúa; đời sống của ta mệt mỏi chán chường vì ta chưa yêu mến Chúa. Xin Chúa thắp sáng lên trong ta niềm tin yêu hy vọng, để noi gương anh chàng mù Bartimê, ta luôn bước theo Chúa trên nẻo đường bằng phẳng, cũng như những đoạn khúc khuỷu gập ghềnh, và nhờ sống bên Chúa, đời ta sẽ ngập tràn ánh sáng.
Lm. Antôn Trần Thanh Long, OP.
|